Website:https://ditimchanly.org/videosbaigiangWWW.YOUTUBE.COM/DinhNghiTruong / CHÚNG CON KÍNH THỜ CUỘC TỬ NẠN CỦA CHÚA GIESU KYTO  / XIN HÃY CANH TÂN GIÁO HỘI / THÁNH HÓA THẾ GIỚI / CHO MỌI DÂN TỘC ĐỪNG ĐỐI XỬ ÁC ĐỘC VỚI NHAU / XIN CHÚA THAY ĐỔI LÒNG CON NGƯỜI ,ĐỂ HỌ SẴN SÀNG TRAO CHO NHAU CƠ HỘI SỐNG TỐT / XIN CHÚA HÃY CỨU THẾ GIỚI CHÚNG CON ĐANG SỐNG AMEN . (GIUSE LUCA)**R

Chia sẻ Lời Chúa Tuần X Thường Niên B -2015 (Giuse Luca)

Chia sẻ Lời Chúa hằng ngày

Thứ 2 -> Thứ 7  /  Tuần X  Thường Niên B (08/06 -> 13/06/2015)

Thứ hai, 08/06/2015

Đề tài: TÁM CÁNH CỬA ĐỂ VÀO NƠI HẠNH PHÚC       

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mattheu (Mt 5,1-12)

1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.2 Người mở miệng dạy họ rằng: 3 "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. 4 Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. 5 Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. 7 Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. 8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. 9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. 10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. 11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. 12 Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.

SUY NIỆM:

1/ Thánh Nữ Monica đã có một đời sống đau khổ vì chồng, vì con, nhưng Thánh Nữ vẫn tha thiết cầu nguyện để kiên nhẫn chịu đựng. Nhờ đó, về cuối đời, người chồng đã đón nhận đức tin Công giáo, còn người con trai thì đã bỏ lạc giáo để trở về với Chúa.

2/ Cuộc đời con người luôn gặp phải những trái ý, bệnh tật, tuổi già, nghèo đói, lao động vất vả và cái chết. Đó là những Thánh Giá cuộc đời.

3/ Chúa Yesus không muốn chúng ta trốn tránh những thực tại trần thế. Nhưng dám chấp nhận những đau khổ vì Ngài, nhờ đó Ngài sẽ ban nhiều ơn phúc cho ta.

4/ Cuộc đời ai cũng bị Thánh Giá đè nặng, nhưng Chúa Yesus hứa sẽ nâng đỡ những ai trông cậy Người. Chúa hứa sẽ ban ơn an ủi nâng đỡ họ.

5/ Thánh Nữ Monica đã đến với Chúa trong những lúc khổ đau. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Chúa bằng cách kiên trì cầu nguyện.

6/ Như vậy: Những ai chịu đón nhận khổ đau bằng niềm tin phó thác vào Chúa, đây cũng là cách chúng ta học ở Chúa để biến những sầu khổ trong cuộc đời, thành hạnh phúc vĩnh cửu.

7/ Bài giảng này thường được gọi là bài giảng trên núi, vì hôm đó Chúa Yesus ngồi trên đám cỏ xanh của một vùng núi đồi, giữa một đám đông dân chúng.

8/ Chúa muốn cho loài người biết, muốn đạt được hạnh phúc thật của Ngài thì con người cần phải làm gì? Chúa cũng nói rõ cho biết: Có tám cách, có tám phương thế, cho nên chúng ta thường gọi đây là Tám Mối Phúc Thật.

9/ Phúc thứ nhất: Phúc cho kẻ có tâm hồn nghèo khó, nghèo khó trong tinh thần là đừng để cho lòng mình tôn thờ tiền của vật chất, sử dụng tiền sao cho đúng. Giàu có thì phải biết chia sẻ của cải cho người khác, không nên hưởng thụ cách ích kỷ, nghèo nhưng không than van, phàn nàn, nhưng luôn trông cậy vào Chúa.

10/ Phúc cho kẻ hiền lành, hiền hòa, dễ thương, dễ mến. Là người biết loại bỏ tự ái cá nhân, sẵn sàng cảm thông tha thứ, cho dù có bị oan ức, thiệt thòi, không tức giận, phẫn nộ với bất cứ ai.

11/ Phúc cho kẻ khóc lóc: Không phải là phúc cho ai hay khóc và mau chảy nước mắt, nhưng là phúc cho ai biết khóc than vì lầm lỗi của đời mình. Hoặc biết đem đau khổ đời mình dâng lên cùng với đau khổ của Chúa Yesus hoặc là biết rung động trước những đau khổ của kẻ khác.

12/ Phúc cho ai biết thương xót: Tức là biết thương người như thể thương thân, là con người nhân từ, rộng rãi, quảng đại biết lấy lá lành đùm lá rách, biết cho hơn nhận, biết khóc cùng kẻ khóc, họ có tấm lòng tốt như Thiên Chúa.

13/ Phúc cho kẻ khao khát sự công chính: Là khao khát được thờ phượng Chúa trong tinh thần và trong chân lý, là luôn đi tìm Thánh Ý Chúa, là biết đi tìm nước Trời trước hết.

14/ Phúc cho kẻ có lòng trong sạch: Sạch tự đáy lòng, lòng tốt sinh ra tư tưởng tốt và việc làm tốt, là người có lòng công chính Thánh thiện trước Thiên Chúa, trước mọi người chứ không chỉ có vẻ bên ngoài.

15/ Phúc cho kẻ gây ra sự hòa thuận: Hòa thuận có 2 chiều như cây Thánh Giá, chiều đứng giữa Thiên Chúa với con người lầm lỗi, giữa tội nhân với Thiên Chúa, chiều ngang là làm hòa với anh em. Công thức của sự bình an là như thế.

16/ Phúc cho ai đau khổ vì đạo ngay: Ở đời luôn có nhiều cái khổ, nhưng chỉ có đau khổ nào hòa hợp với đau khổ của Chúa Yesu , chỉ có đau khổ nào vì Chúa và vì Tin Mừng thì mới có giá trị và đáng được Thiên Chúa chúc phúc.

Cầu nguyện: lạy Chúa ,xin ban cho con ngọn lửa yêu mến để con dám sống đúng bản chất Kyto hữu của mình là dám làm chứng cho Chúa suốt cuộc đời con , amen /

 

Thứ ba, 09/06/2015

Đề tài: BẢN CHẤT CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-to theo Thánh Mattheu (Mt 5,13-16)

 

13 "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.14 "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được.15 Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.16 Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. 

SUY NIỆM:

1/  Nhiều người có đạo, sau một thời gian sống đạo, lại muốn bỏ đạo.  Nhiều người ngoại giáo có cảm tình với đạo, nhưng sau một thời gian tiếp xúc với người có đạo, thì họ lại thôi.

2/ Lý do là vì họ thấy người công giáo sống cũng chẳng tốt lành gì. Chỉ nghe họ đọc kinh như con sáo, nhưng khi sống đạo thì cũng ăn gian nói dối, độc ác, bất công, lừa đảo chẳng thua kém ai.

3/ Câu chuyện trên đây cho thấy các nhân chứng luôn sống phản lại Tin Mừng đã gây tác hại xấu lên những người khác. Chúng ta không thể làm sáng danh Chúa, nếu cứ sống ích kỷ, khinh ghét người nghèo khổ và sẵn sàng loại trừ lẫn nhau.

4/ Hôm nay qua bài Tin Mừng, Chúa Yesus cho biết: Bản chất con người Ki-tô hữu là muối, là ánh sáng của Thiên Chúa giúp cho người đời nhận ra Thiên Chúa là chân lý, là Đấng giàu tình thương, là ơn cứu độ, là nguồn hạnh phúc.

5/ Người khác sẽ nhận biết chúng ta là muối, là ánh sáng qua lời nói và hành động bác ái yêu thương. Và nếu một Ki-tô hữu sống đúng với bản chất của mình là khi chúng ta sống đúng với giáo huấn của Tin Mừng.

6/ Chúa Yesus dùng 2 biểu tượng, hai Dụ Ngôn ngắn để nói lên bản chất và sứ mệnh của người Ki-tô hữu đó là: Muối và ánh sáng, Anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian.

7/ Muối là nước biển cô đặc, vị mặn, tính hàn. Muối là một vị tối cần cho cơ thể con người và cho các loài động vật có vú, người Do Thái dùng muối rắc vào phân lạc đà làm chất đốt, tốt nhất là muối ở biển chết vì có nhiều Clorua Magnesium.

8/ Chúng ta thì dùng muối để nêm đồ ăn cho các vị mặn mà. Muối để ướp đồ ăn cho khỏi hư thối, trong y học người ta dùng muối để bảo vệ sinh tố, làm thuốc thang cho tiêu hóa và thận. Kinh Thánh dành nhiều cảm tình cho muối.

9/ Trong Cựu Ước, muối tượng trưng cho sự trung thành của Thiên Chúa. Trong sách Dân Số nói Thiên Chúa Yave đã ký kết một khế ước bằng muối.

10/ Trong Tân Ước, Chúa Yesus nói: Anh em là muối cho đời, muối ở đây có 2 ý nghĩa: Thứ nhất là thêm sức sống ơn Thiên Chúa (thêm hương vị), thứ hai là bảo vệ đồ ăn khỏi hư: bảo vệ chân lý hằng sống.

11/ Người Ki-tô hữu sống giữa trần gian như con diều tung bay giữa bầu trời, mà cái dây vẫn bị buộc chặt ở mặt đất. Chúng ta là con cái Chúa cũng vừa là một phần tử trong xã hội loài người mà chúng ta đang sống.

12/ Chúng ta sống ở đời này với vai trò là muối đất, là người đại diện cho Thiên Chúa. Nhưng trên hết, chúng ta là công dân nước trời, là con cái Thiên Chúa, cho nên chúng ta không được quên lối về trời. Thánh Phao dặn: Chúng ta sống ở trần gian như lữ khách, nhưng định mệnh là chúng ta phải về trời.

13/ Cho nên dù đi đâu, dù sống ở đâu, chúng ta cũng phải như là muối mặn, chúng ta phải luôn thêm hương vị cho đời như những con én bay lên làm tăng niềm vui cho mùa xuân.

14/ Chúng ta càng sống càng phải thêm khôn ngoan, thêm nhân đức như Chúa Yesus, là thêm sức sống, thêm hy vọng, thêm tình yêu cho gia đình, cho thôn xóm.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin thêm lửa mến vào trong lòng con, để con dám sống đúng với bản chất Ki-tô giáo của mình là làm chứng cho Chúa mỗi ngày. Amen.

 

Thứ tư, 10/06/2015

Đề tài: LỀ LUẬT VÌ CON NGƯỜI

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mattheu (Mt 5,17-19)

17 "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.18 Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.19 Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời. 

SUY NIỆM:

1/ Một ông lão đói quá, đã ăn cắp một ổ bánh mì, người ta đem đến cho ông thị trưởng NewYork xử. Theo luật thời đó, ông lão phải chịu phạt 10 đô-la, ông thị trưởng đã bỏ ra 10 đô nộp phạt cho ông lão, sau đó ông thị trưởng đã yêu cầu mỗi người có mặt trong phiên tòa hôm ấy phải nộp phạt 50 xu vì đã để cho một người trong thành phố này nghèo đến mức phải đi ăn cắp. Tổng số tiền thu được, ông thị trưởng đã trao hết cho ông lão.

2/ Người ta đặt ra lề luật là để mang lại sự công bằng và trật tự cho xã hội. Tuy nhiên trong thực tế, người ta đã lợi dụng luật để bắt bẻ và làm khổ lẫn nhau.

3/ Luật Moisen thời đó đề cập đến sự công bằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Chúa Yesus đã kiện toàn bằng luật yêu thương, do đó luật được lập ra là vì con người, luật để mang lại hạnh phúc cho con người.

4/ Chính Chúa Yesus đã thực hành luật yêu thương qua việc chữa lành kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong ngày Sabat. Và bằng cái chết thập giá, Chúa đã cứu độ con người, Chúa cũng muốn chúng ta biểu lộ yêu thương bằng hành động như thế.

5/ Chúa Yesus khẳng định: Anh em đừng tưởng thầy đến để bãi bỏ luật Moisen hoặc lời các Ngôn sứ, nhưng là để kiện toàn.

6/ Từ ngày xưa, ông Moisen đã dạy luật Thiên Chúa cho dân Do Thái. Đến lượt các Ngôn sứ cũng dạy cho họ biết những điều Thiên Chúa muốn truyền dạy, sau đó lại có các kinh sư là những người chuyên môn về kinh thánh, họ đã làm sáng tỏ những điều Thiên Chúa muốn truyền dạy và không quên đặt thêm ra nhiều thứ luật, khi đến thời Chúa Yesus thì đã có tới 613 điều, nhưng họ đã đi quá lố đến độ đã làm nô lệ cho lề luật vì thế Chúa Yesus đã nhiều lần khiển trách họ.

7/ Người Phariseu đã hiểu lầm vì tố cáo Chúa Yesus là vi phạm pháp luật và coi thường truyền thống tổ tiên. Nhưng Chúa đã nói rõ cho họ biết: Chúa đến để kiện toàn, để làm cho mọi người tuân giữ luật lệ một cách hoàn hảo hơn.

8/ Cách Chúa Yesus kiện toàn: Chúa nhấn mạnh đến giá trị tinh thần của luật lệ, luật Chúa phải bắt đầu từ trong lòng, trong lương tâm chứ không câu nệ vào hình thức bên ngoài. Sau đó, luật còn phải đặt trên nền tảng bác ái yêu thương chứ không nên đối xử với nhau một cách sòng phẳng như là máy móc.

9/ Còn một điều nữa là không nên coi những luật lệ do con người làm ra còn quan trọng hơn luật do Chúa dạy. Rồi như để minh chứng cho sự kiện toàn lề luật chứ không phải để phá bỏ, Chúa Yesus nói thêm: Dù một chấm một phẩy cũng sẽ không qua đi, bởi vì đó là luật của Thiên Chúa, thì cho dù là điều thật nhỏ mọn thì con người cũng phải tuân giữ. Đó cũng là ý nghĩa của câu cuối cùng của bài Tin Mừng.

10/ Chúa Yesus nhắc nhở người Do Thái ngày xưa cũng như muốn nhắc nhở tất cả chúng ta ngày hôm nay: Đừng bao giờ coi luật mình đặt ra hơn luật của Thiên Chúa, nếu đã là luật do Chúa truyền thì ta phải tuân giữ đàng hoàng, đầy đủ thì mới hy vọng vào được nước trời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con đừng vì quá coi trọng lề luật mà nhẫn tâm nhìn người khác nghèo khổ, đói khát. Xin cho con biết yêu thương anh em nhiều hơn, bởi vì bác ái là đã chu toàn mọi lề luật. Amen.

 

Thứ năm, 11/06/2015

Đề tài: Người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi

Kính Thánh Tông Đồ Barnabas

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mattheu (Mt 10,7-13)

7 Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần.8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.9 Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng.10Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
11 "Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.12Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy.13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì -bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em.

TIỂU SỬ:

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông đồ. Là một người Do Thái sinh trưởng tại đảo Sýp ,vào thời khởi đầu của đạo Kitô giáo , Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân được các thánh tông đồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là "người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi". Sau khi ăn năn trở lại, thánh Phaolô đến Giêrusalem, nhưng cộng đoàn tín hữu tại đây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.

Chính thánh Barnaba là người đứng ra bảo đảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông đồ khác , nhưng sau đó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều năm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông đồ sai Barnaba đến Antiokia để điều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba đã nhận ra ngay ơn Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do để nối kết hai người lại với nhau trong cánh đồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một năm. Một trận đói lớn đã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô đã quyên góp để mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một người bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử trong tương lai.

Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên đường đi đến đảo Sýp, quê hương của Barnaba và từ đó sang Tiểu Á. Tại một trạm đầu tiên ở Tiểu Á, Marcô đã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt đầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một bước đi là mỗi một lần bị chống đối và bách hại từ phía những người Do Thái. Những người này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông đồ.

Tại Lít-ra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một người tàn tật, dân thành xem các ngài như những vị thần. Họ định giết bò để tế cho các ngài nhưng liền sau đó bị người Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thương tích. Dù bị chống đối và bách hại, hai vị tông đồ vẫn hoán cải được nhiều người cũng như tổ chức được giáo đoàn. Bị người Do Thái và dân ngoại chống đối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khăn ngay cả từ phía cộng đoàn Giêrusalem. Vấn đề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này đã tranh đấu và cuối cùng đã tìm được giải pháp trong cộng đoàn Giêrusalem.

Về sau, trong chuyến đi trở lại để viếng thăm các cộng đoàn, Barnaba và Phaolô đã chia tay nhau mỗi người một ngả. Barnaba đi với Marcô đến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một người môn đệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những năm tháng còn lại của Barnaba không còn được nhắc đến nữa. Nhưng cũng như thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô đã trở thành môn đệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.

Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục đầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào đi nữa, tất cả mọi truyền thuyết đều gặp nhau trong cùng một điểm là xem Barnaba như con người được mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô giáo đầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con người tốt, đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái độ của ngài đối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và đại lượng.

Bài học từ thánh Barnaba:

Một trong những điều tệ hại nhất vẫn xảy ra trong cộng đồng, xã hội, gia đình, giáo xứ, trường học, công sở, hội đoàn,… là luôn biểu hiện các động thái tiêu cực đới với người khác – nhất là đối với những người không “hợp nhãn”, không “cùng phe”, không “đồng quan điểm” với mình. Rất đa dạng! Vậy phải làm sao? Hãy thử áp dụng mấy “liệu pháp” này:

1. Khiêm nhường. Coi mình là người thua kém. Mà thật vậy, dù chúng ta có là gì cũng bởi nhờ Ơn Chúa (1 Cr 10:15). Thế thì chẳng có lý do gì mà “nổ”, mà “chảnh”, mà nhìn người bằng nửa con mắt. Nếu thấy người ta không ưa mình, hãy xét mình. Và cứ can đảm chấp nhận là mình bất xứng vì bất tài và vô dụng. Thế là an tâm. Thiên Chúa thấu suốt tâm can bạn hơn chính bạn biết mình. Đừng suy diễn hoặc thể hiện các động thái không có tính nhân bản.
2. Giữ lập trườngChúng ta nghĩ xấu về người khác vì chúng ta có chút thông tin gì đó về họ, qua người này hay người nọ, nhưng chúng ta không xét xem thông tin đó có đáng tin không và người nói có chính xác, có ý ngay lành không? Chẳng hạn trên internet có biết bao thông tin, biết tin cái nào? Tức là chúng ta phải có khả năng phán đoán chính xác và khả năng chắt lọc với sự khôn ngoan – chứ đừng “không ngoan” (khác nhau chỉ một mẫu tự G thôi)! Đừng vội tin những gì bạn nghe. Phải có lập trường chứ đừng nhẹ dạ, cả tin. Kẻ xấu có thể lợi dụng sự cả tin của mình. Cái gì cũng có “mặt trái” của nó. Cần phải “dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”!
3. Thẳng thắnNgười Việt nói: “Ba mặt, một lời”. Ba mặt chứ không chỉ hai mặt. Nghĩa là công khai với nhiều người, có người làm chứng giữa hai người. Nếu có “vấn đề” gì với ai đó, hãy thẳng thắn và cởi mở nói chuyện với nhau, đừng ngại hoặc “úp-mở”. Nếu cảm thấy khó thì nhờ người khác cùng đối thoại. Đúng vậy, thực sự đối thoại, chứ đừng “đối thọi”!
4. Phục vụ. Phục vụ là động thái được Chúa Giêsu luôn đề cao, Ngài không chỉ nói (Mc 10:45) mà chính Ngài còn nêu gương khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly (Ga 13:1-20), trước khi Ngài chịu khổ nạn. Mình phục vụ người khác, rồi người khác sẽ phục vụ mình. Đó cũng là tính xã hội vậy. Phục vụ là thể hiện yêu thương, khiêm nhường, tha thứ,... Sự liên kết tuyệt vời!
5. Nhận lỗi. Đừng đổ lỗi cho người khác. Thường thì người ta có xu hướng lẩn tránh trách nhiệm, chỉ tìm cách đổ lỗi cho người khác. Dù không phải là lỗi của mình, nhưng cứ khiêm nhường mà nhận lỗi. Rồi mọi sự sẽ được làm sáng tỏ, như chúng ta vẫn nói: “Trời có mắt”. Chắc chắn Thiên Chúa không để cho ai phải chịu hàm oan đâu!
6. Trưởng thànhTrưởng thành tâm lý, tức là chín chắn, chứ không chỉ trưởng thành thể lý. Một số người thích tỏ ra mình là người “đáng thương” để được người khác tội nghiệp mình. Họ “nhõng nhẽo” như vậy không chỉ là tự tôn mà thậm chí còn là kiêu ngạo. Động thái này thật là ấu trĩ! Vì con trẻ thường hờn dỗi để nũng nịu với cha mẹ hoặc người lớn. 
7. Không than phiền. Người ta dễ than phiền, ai cũng than phiền, dù trẻ hay già, dù giàu hay nghèo, dù nam hay nữ. Than phiền cũng là “bệnh truyền nhiễm”, nó có sức lây lan rất nhanh. Vì dễ than phiền mà có thể dẫn tới việc nói xấu hoặc chỉ trích người khác. Cẩn tắc vô ưu!
Thánh Barnabas được đầy Chúa Thánh Thần và Hồng Ân. Ngài là người cổ vũ, động viên, giúp đỡ hoặc khuyến khích. Ngài vừa đại lượng vừa lạc quan và uy tín. Ngài đã dám đi gặp Thánh Phaolô ngay khi nhiều người khác nghi ngờ ngài, vẫn cứ mạnh dạn chịu trách nhiệm về tình huống ở Antiokhia, đồng thời can đảm rao giảng Tin Mừng. Có lần vào ngày Sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Thấy những đám đông như vậy, người Do Thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối và nhục mạ Thánh Phaolô. Bấy giờ Thánh Phaolô và Thánh Barnabas đã mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13:46).

Cầu nguyện :Lạy Chúa ,chúng con rất ngưởng mộ các nhân đức của Thánh Barnabas ,xin giúp con luyện tập các tính tốt , tập sống quảng đại , mạnh dạng từ bỏ mọi tính mê tật xấu ,để con có thể trở nên tông đồ cho Chúa như Thánh Barnabas,    amen /

 

Thứ sáu, 12/06/2015

Đề tài: NGƯỜI LÍNH LẤY GIÁO ĐÂM THỦNG CẠNH SƯỜN NGƯỜI.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan (Yn 19,31-37)

31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu. 

SUY NIỆM:

1/ Thế kỷ 19 được coi như thế kỷ của lòng sùng kính Đức Mẹ Maria, còn thế kỷ 20 là thế kỷ của Thánh Tâm Chúa Yesus. Một trái tim con người của Đấng là con Thiên Chúa.

2/ Lịch sử của ngày lễ kính: Đây là lễ mà Giáo hội mời gọi các tín hữu chiêm ngắm trái tim Chúa Yesus như dấu chỉ tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Lòng tôn sùng này được Thánh Yoan Eude (1680) cổ vũ từ thế kỷ thứ 17, và nhất là qua các thị kiến mà Thánh Nữ Magarita Maria Alacoque (1690) nhận được tại tu viện thăm viếng vào năm 1673-1675. Trong thị kiến, Magarita được Chúa Yesus cho thấy trái tim Người, một trái tim đã yêu thương con người đến thế mà chỉ nhận được sự vô ơn bạc bẽo. Thánh nữ còn được ủy thác, cổ võ xin thiết lập một ngày lễ kính Thánh Tâm, nhưng phải đợi đến gần 2 thế kỷ sau ngày Ngài qua đời vào năm 1856, Đức Pio 9 mới thiết lập ngày lễ này trong toàn Giáo hội. Sau đó Đức Lêo 13, Pi 11, Pio 12 đã có các giáo huấn về việc tôn sùng Thánh Tâm qua thông điệp “Annum Sacrum” được công bố ngày 25/05/1899, chuẩn bị cho năm Thánh 1900 với việc dâng cả loài người cho trái tim Chúa Yesus.

3/ Nền tảng cho việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Yesus, đó là đoạn Tin Mừng: Yn 19,31-37, nói về việc xảy ra sau khi Chúa Yesus chết trên thập giá, một người lính đã lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Chúa và “lập tức có máu cùng nước chảy ra” . Một đoạn Tin mừng khác cũng thường được nhắc tới, đó là Mt 11,25-30 nói về một Mạc Khải thật quý báu: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ nâng đỡ, bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của ta và học cùng ta vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng..”.

4/  Trong tháng Thánh Tâm: Có ngày lễ Thánh Tâm và ngày này dùng để cầu xin ơn thánh hóa cho các Linh mục và cầu nguyện cho đời sống đạo đức của mỗi cá nhân con người.

5/ Người Ki-tô hữu biết rằng: Chúa Yesus đã yêu thương chúng ta, yêu thương từng con người cụ thể, yêu thương hết lòng và yêu thương đến cùng, yêu cho đến chết để cứu độ.

6/ Chúng ta được mời gọi phải đáp trả, phải sống giới luật yêu thương: Mến Chúa yêu người, theo gương Đấng đã yêu thương chúng ta và cũng yêu thương theo mức độ mà Chúa đã yêu thương chúng ta. Chúa cũng muốn chúng ta đem tình yêu thương ấy vào cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể yêu thương đón nhận mọi người anh chị em chung quanh chúng ta.

7/ Ước gì khi được lửa nơi Trái Tim Chúa thiêu đốt, chúng ta cũng biết mặc lấy tâm tình của Chúa. Một đàng ta ý thức được thân phận thấp hèn, yếu đuối của mình để biết sám hối, ăn năn. Mặc khác, ta biết thật lòng sống yêu thương như Chúa muốn.

8/ Trở lại điểm khởi đầu: Chúa muốn nhắc nhở chúng ta phải cầu nguyện nhiều cho hàng Linh Mục. Xin Chúa ban cho các Ngài trở thành những Mục Tử chăm sóc tốt cho các linh hồn, các Ngài cũng biết để cho tình yêu Chúa uốn nắn, làm cho các Ngài trở nên những Mục Tử nhân lành như lòng Chúa mong muốn.

9/ Điều quan trọng thứ hai chúng ta cần làm: Mỗi gia đình Công giáo chúng ta phải trở nên một gia đình Betania, nơi Chúa có thể dừng chân, nghỉ ngơi, ngự trị. Chúa muốn từng gia đình chúng ta là nơi đón tiếp Chúa, an ủi Chúa, làm vui lòng Chúa qua việc dâng gia đình mình cho trái tim Chúa làm chủ, làm vua ngự trị. Nơi nào có Chúa ngự trị, nơi đó quỷ ma không bao giờ dám bén mảng tới, nơi nào có Chúa  ngự trị, nơi đó sẽ tràn ngập tình yêu thương hạnh phúc. Trái tim Chúa hứa rằng: Gia đình nào tôn sùng Trái Tim Chúa, sẽ được Chúa chúc phúc và không bao giờ phải sợ mất linh hồn, nếu các thành viên trong gia đình chân thành dọn mình rước lễ 9 thứ sáu đầu tháng liên tiếp và có ý đền tạ Trái Tim Chúa Yesus trót đời mình. Lời Chúa  hứa, Chúa sẽ thực hiện, chúng ta cần vững tin.

10/ Bài Phúc Âm nhắc chúng ta nhớ rằng: Vết thương mà người lính đã cầm giáo mở ra nơi cạnh sườn Chúa Yesus. Nhờ đó khi ta nhìn vào trái tim Chúa, chúng ta sẽ thấy Máu và Nước đang chảy ra, máu nói lên sự sống và tình yêu, nước chảy ra đến đâu, rửa sạch tội đến đó.

11/ Khi nói đến máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa Yesus, Thánh Yoan muốn chỉ cho mọi người thấy: Trái Tim Chúa đang đổ hết sức sống và tình yêu của Người ra để rửa sạch tội cho chúng ta, khiến chúng ta trở thành một tạo vật mới, thánh thiện hơn, đẹp lòng Chúa hơn.

12/ Người ta thật có lý khi bảo: Giáo hội được sinh ta từ cạnh sườn Chúa Yesus, như bà Eva được sinh ra từ khúc xương sườn của Adam. Sách Thánh nói thế là có ý bảo rằng: Xương thịt Eva cũng là xương thịt của Adam, nam nữ cũng là loài người, nam nữ phải mật thiết và yêu thương nhau bình đẳng, coi nhau như thân thể mình. Hôm nay tất cả chúng ta cũng được sinh ra từ cạnh sườn Chúa Cứu Thế. Giáo hội là thân thể của Người, Người sẽ yêu thương Giáo hội và Người cũng yêu thương chúng ta.

13/ Vậy chúng ta hãy đến cùng trái tim Chúa Yesus trong Kinh Thánh, trên Thập giá, nơi bí tích Thánh Thể, trong Giáo hội và trong tha nhân. Trong Kinh Thánh chúng ta đọc thấy lời Chúa yêu thương chúng ta, trên Thánh Giá, máu Chúa Yesus đang chảy để cứu sống chúng ta, còn nơi Thánh Thể, tình yêu nơi trái tim Chúa được biểu hiện qua lời truyền phép.

14/ Nếu Chúa trao cả trái tim Chúa cho Giáo hội, cho chúng ta thì khi nhìn vào tha nhân, chúng ta phải thêm lòng yêu thương họ, muốn phục vụ họ. Còn trong gia đình, vợ chồng chúng con phải sống cho nhau, vì nhau và cùng hợp tác để lo cho con cái mình. Có như thế chúng ta mới mong làm đẹp lòng trái tim Chúa.

Cầu nguyện: Xin Thánh Tâm Chúa cho chúng con một trái tim yêu thương giống như Trái tim Chúa. Amen.

 

Thứ bảy, 13/06/2015

Đề tài: LỄ KÍNH TRÁI TIM ĐỨC MẸ MARIA

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Luca (Lc 2,41-51)

41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua.42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết.44 Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm. 46 Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi.47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.48 Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! "49 Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? "50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. 51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.

SUY NIỆM:

1/ Nền tảng Phúc Âm Tân Ước về việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ: Trong sách Tân Ước, theo Tin Mừng Thánh Luca, có hai lần nhắc đến Mẹ Maria (Lc 2,19): Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng, và câu: Còn mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng (Lc 2,51).

2/ Hình ảnh trái tim trong Cựu Ước: Trong Cựu Ước, trái tim được xem như biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Đối với nhân loại, trái tim là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật, ta đã nghe nói rằng: “Người hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi” (II luật 6,5). Khi các biệt phái chất vấn Chúa Yesus về giới răn nào trọng nhất, Chúa Yesus đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời họ (Mc 12,29-33).

3/ Tấm gương sáng từ nơi Mẹ: Cũng chính Mẹ Maria đã đáp trả bằng tiếng xin vâng với Thiên Chúa. Đó là lời Mẹ đáp lại với Sứ Thần truyền tin, do sự ưng thuận về tình yêu, trước hết Mẹ Maria đã cưu mang Chúa nơi trái tim mình rồi sau đó mới cưu mang Chúa Yesus nơi cung lòng Mẹ.

4/ Người đời ca tụng Mẹ như thế nào? Chính Đức Ki-tô đã được người phụ nữ trong đám đông ca tụng rằng: Phúc cho cung lòng người nữ đã cưu mang và sinh ra Chúa. Ngay sau đó Chúa đã trả lời: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn” (Lc 11,28).

5/ Lời ca tụng Đức Mẹ của Đức Thánh Cha Yoan P.II: Trong thông điệp đầu tiên “Đấng cứu chuộc con người”, Đức Thánh Cha đã viết: Mầu nhiệm cứu độ đã được hình thành trong trái tim của Đức trinh nữ Thành Nazaret khi Mẹ thưa lời xin vâng.

6/ Lịch sử tôn sùng Mẹ Maria từ các Thánh: Đầu tiên vào thế kỷ thứ 12 với hai Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard Thành Claievaux (1153) là hai Thánh viết về đề tài tôn sùng thánh thiện này. Kế đến là Thánh Bernadine Thành Sienna (1380-1444) là vị tiến sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ. Rồi đến Thánh John Eudes (1601-1680), qua các bài viết, Ngài đã khơi dậy lòng sùng kính này.

7/ Lịch sử tôn sùng Mẹ từ các Đức Giáo Hoàng: Đức Thánh Cha Leo 13 và Đức Pio 10, hai Ngài được gọi là Cha, là Thầy dạy, là Tông đồ phục vụ cho lòng sùng kính trái tim Chúa Yesus. Thánh John Eudes đã dành ngày 8 tháng 2 của khoảng năm 1643 để kính nhớ trái tim vẹn sạch Đức Mẹ.

8/ Truyền thống tôn sùng Trái Tim Mẹ được mạnh mẽ hơn qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure vào năm 1830, và với việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ 13/5 -> 13/10/1917.

9/ Trong ngày 13/07/1917, Đức Mẹ đã cho 3 trẻ này biết rằng: Để cứu được những người tội lỗi, Thiên Chúa đã cho phép thiết lập việc sùng kính trái tim Vô Nhiễm của Mẹ, toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện thống hối và bằng những hãm mình, hy sinh đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những tội lỗi xúc phạm đến Ngài.

10/ Dâng thế giới cho Đức Mẹ: Vào năm 1942, kỷ niệm 25 biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh Cha Pio 12 đã dâng thế giới cho trái tim vô nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, Ngài chọn lễ mừng vào ngày 22/8, một tuần sau của lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Vào ngày 4/5/1944 Ngài loan báo mở rộng lễ kính Mẹ Vô Nhiễm cho toàn thế giới.

11/ Về sau này, với những cải cách về phụng vụ trong cộng đồng Vatican II, lễ Trái tim vô nhiễm Đức Mẹ được dời về một ngày sau lễ Kính Thánh Tâm Chúa Yesus, chính là ngày thứ bảy sau Chúa Nhật thứ nhì sau Lễ Chúa Hiện Xuống.

12/ Lời cầu nguyện dâng lên cho Đức Mẹ: Lạy Chúa, Chúa đã chuẩn bị trái tim tinh tuyền của Mẹ Maria để trở thành ngai tòa trú ngụ của Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con là dân Chúa tuyển chọn, cũng được trở thành những đền thờ Thiên Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con là những người con thiêng liêng của Mẹ được kết hiệp luôn mãi trong tình thắm thiết với con Mẹ và không bao giờ để tội lỗi làm chúng con xa rời Chúa. Amen.

13/ Lời các Thánh ca tụng Mẹ:

a/ Thánh Gieronimo: Không có trí khôn thụ tạo nào, không có trái tim thụ tạo nào, không có sức lực nhân loại nào có thể biết được trái tim Mẹ Maria yêu Thiên Chúa đến mức độ nào?

b/ Thánh Benado: Tình yêu của Chúa chiếm trọn trái tim Mẹ Maria, đến nỗi trái tim Mẹ đầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong trái tim rất thánh của Mẹ Maria. Và cũng vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để có thể nhận lãnh trọn vẹn ngọn lửa thánh này.

c/ Thánh Phaxico Salesio: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối, tuyệt vọng nhất, đặc biệt là lúc ở trên đồi Canve, Mẹ đã đạt tới mức độ yêu mến hoàn hảo, cao cả nhất. Điều căn bản trọn vẹn nhất là tâm hồn Mẹ đã tan hòa, kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến một mình Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.

d/ Thánh Yoan M.Vianney: Chúa con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì ngoài trái tim tình yêu của Mẹ, vì vậy không có ơn nào từ trời xuống mà không đi qua bàn tay của Mẹ.

14/ Lời dạy của Giáo hội:

a/ Lời của Đức Pio 12: Tình hiền mẫu của trái tim Mẹ Maria gần như vô biên, tâm hồn Mẹ đầy tình yêu nồng nàn nhất. Trong giờ phút bi thảm nhất của loài người này, chúng con phó thác và hiến dâng tất cả chúng con cho trái tim Mẹ.

b/ Đức Phaolo 6: Một lễ vật được người đạo đức thời nay yêu quý theo chiều hướng mới => Lấy tình thương xóa bỏ hận thù, đó là lễ kính trái tim Đức Mẹ.

c/ Đức Yoan Phaolo II: Trái tim mẹ Maria luôn luôn theo sát sự nghiệp con của mình và cũng đập một nhịp thương mến đối với tất cả những ai mà Đức Ki-tô đã và đang ấp ủ trong tình thương mến vô biên của Ngài.

Cầu nguyện: Lạy trái tim Mẹ Maria, trái tim Mẹ đã mở ra khi Mẹ nghe Chúa nói: “Hỡi bà, này là con bà”. Trái tim Mẹ cũng đã gặp gỡ trái tim con Mẹ và cũng mở ra khi trái tim con Mẹ bị lưỡi dòng của người lính đâm thâu. Trái tim Mẹ cũng đã mở ra để yêu thương loài người khi trái tim Chúa Ki-tô đã yêu thương và đã tự hiến mình trên cây Thánh Giá, xin Mẹ hãy cưu mang, ấp ủ chúng con bây giờ và mãi mãi. Amen.

 


Trở lại      In      Số lần xem: 1714
Tin tức liên quan
Video
BG CN 25 TN B-TGM GIUSE NGUYEN NANG
Bài Giảng CN LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG A
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  10
 Hôm nay:  2396
 Hôm qua:  1986
 Tuần trước:  22065
 Tháng trước:  87599
 Tất cả:  11405212
LIKE FACEBOOK
Thông tin liên hệ
- Mọiýkiếnxingửivề:GiuseLucaTrươngĐìnhNghi
- Giáodânbấtxứng /Quảnlýwebsite.
- Email: ditimhanhphuc1974@gmail.com
- Fb:https://www.facebook.com/ditimchanly.org 
-Videos:www.youtube.com/tìmtênDinhNghiTruong
 clickvàologokinhthánh .

Chia sẻ cho bạn bè :
top