Website:https://ditimchanly.org/videosbaigiangWWW.YOUTUBE.COM/DinhNghiTruong / CHÚNG CON KÍNH THỜ CUỘC TỬ NẠN CỦA CHÚA GIESU KYTO  / XIN HÃY CANH TÂN GIÁO HỘI / THÁNH HÓA THẾ GIỚI / CHO MỌI DÂN TỘC ĐỪNG ĐỐI XỬ ÁC ĐỘC VỚI NHAU / XIN CHÚA THAY ĐỔI LÒNG CON NGƯỜI ,ĐỂ HỌ SẴN SÀNG TRAO CHO NHAU CƠ HỘI SỐNG TỐT / XIN CHÚA HÃY CỨU THẾ GIỚI CHÚNG CON ĐANG SỐNG AMEN . (GIUSE LUCA)**R

Tìm hiểu Tin Mừng CN 3 Mùa Chay A - Giuse Luca

CHÚA NHẬT  3  /  MC A 

Đề tài: NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI /

CHÚA MỚI CHÍNH LÀ NGUỒN NƯỚC TRƯỜNG SINH 

 Tung hô Tin Mừng: x.Ga 4,42.15

“Lạy Chúa, Chúa thật là đấng cứu độ trần gian, xin ban cho con nước hằng sống, để con không bao giờ khát nữa.”

"Mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gio-an.  Lời Chúa: Ga 4, 5-42

5 Khi ấy, Đức Giêsu đến một thành sứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giuse. 6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. 9Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức Giêsu trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” 11 Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” 13 Đức Giêsu trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

15 Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” 16 Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” 17 Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng.” Đức Giêsu bảo: “Chị nói: “Tôi không có chồng” là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” 19 Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Yerusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.”21 Đức Giêsu phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Yerusalem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái.23 Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” 25 Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Messia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26 Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy?” 28Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29 “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” 30Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Rap-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” 32Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” 33Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” 34 Đức Giêsu nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! 36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục ngữ“kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở đó hai ngày. 41 Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật sự là Đấng cứu độ trần gian.”

Đó là lời Chúa.

 

Bài 1: MỘT THỨ KHÔNG THỂ THIẾU

Chia sẻ cho nhau ý nghĩa bài Tin Mừng:

1. Vì sao người Do Thái quý nước? Người Do Thái quanh năm sống trong sa mạc, nên họ rất quý nước/ Họ hiểu rằng: nước luôn gắn liền với sự sống./ Đồng thời họ cũng rất có kinh nghiệm về dòng nước chảy ra từ tảng đá dưới chân núi Horeb qua tác động của cây gậy ông Moisen./ Điều này chứng tỏ rằng: Chính Thiên Chúa đã đem lại sự sống cho họ./

2. Chúa Giêsu cho ta thấy có mấy loại nước? Bài phúc âm hôm nay cho thấy từ thứ nước bình thường dưới lòng giếng./ Chúa Giêsu đã giới thiệu cho người phụ nữ Samaria một thứ nước có thể mang lại sự sống vĩnh cửu./

3. Chúa Giêsu đã vượt qua thứ ranh giới nào? Đã từ lâu, người Do Thái đã coi dân Samari như một kẻ thù truyền kiếp/ Do Thái coi người Samari như một thứ uế tạp, một thứ ngoại đạo cần phải tránh./ Thế mà hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu đã vượt qua ranh giới thù hận ấy bằng cách trò chuyện với chị.

4. Sứ mạng của Chúa Giêsu đến thế gian là gì? Chúa Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của mình là được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel/ khi được nói chuyện với Chúa Giêsu, đã giúp chị nhận ra tình trạng bất chính của mình/ để rồi cuối cùng chị xác tín rằng: Ngài là Đấng cứu thế./

5. Chúa Giêsu đã trao đổi thứ gì với người phụ nữ? Chúa Giêsu đã mở đầu câu chuyện bằng cách xin nàng cho Ngài uống nước/ để rồi cuối cùng chính nàng lại là người lãnh nhận nước ban sự sống.

6. Dân Do Thái và dân Samari tranh luận về điều gì? Dân Samari có đền thờ riêng tại núi Sikem/ trong khi dân Do Thái lại khẳng định đền thờ Yerusalem mới là nơi thờ phượng Thiên Chúa đích thực./ Bởi vì đó mới là nơi Thiên Chúa ngự trị ở giữa Dân Ngài./

7. Hai dân tộc đã khích bác nhau như thế nào? Cuộc tranh luận đã trải qua nhiều tháng nhiều năm./ Họ không tranh luận suông/ người Do Thái còn cho rằng dân Samari đang theo đuổi một thứ tôn giáo lai căng/ còn dân Samari thì đã có lần rắc xương người chết vào nơi thờ kính của người Do Thái, để làm cho nơi đó trở nên uế tạp/ không còn xứng đáng là nơi thích hợp để tế tự./

8. Chị phụ nữ đã muốn Chúa can thiệp như thế nào? Có lẽ chị phụ nữ muốn nhờ Chúa đứng ra phân xử, làm trọng tài/ bởi vì chị nhận ra Ngài chính là Thiên Chúa khi Chúa Giêsu dễ dàng biết rõ hết mọi chuyện thầm kín của đời chị .

9. Cách thờ phượng Chúa đúng nhất: Chúa dạy cho chị phụ nữ biết cách thờ phượng Chúa trong tinh thần và trong chân lý, tức là nhận biết Thiên Chúa là Cha và đặt mình vào mối quan hệ Cha con với Thiên Chúa./ Đây mới là điều mà Thiên Chúa muốn./

10. Tạo sao con người cần được Chúa Giêsu bắt nhịp cầu? Đời sống thần linh và đời sống phàm trần như hai bến bờ cách xa nhau diệu vợi/ cho nên cũng cần có một nhịp cầu đi qua dòng sông này giúp con người gặp gỡ Thiên Chúa./ Hôm nay Chúa Giêsu cũng bắt một nhịp cầu để bắt qua dòng sông ngăn cách/ thái độ gần gủi của Chúa như là nhịp cầu xóa đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo./ Lời Ngài chính là nhịp cầu dẫn chị phụ nữ về đời sống tâm linh./

11. Tại sao chị phụ nữ lại tỏ ý coi thường Chúa Giêsu? Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước/ chị có ý nhìn Chúa bằng ánh mắt khinh thường/ dưới con mắt của chị, Chúa Giêsu chỉ là một gã Do Thái ăn mặc xốc xếch, anh chàng lại nghèo, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống/ chị có vẽ ta đây, vì chị đang có tất cả: Chị có giếng nước của tổ tiên/ đối với dân du mục: Có nước là có tất cả/ bởi vì ở giữa sa mạc mênh mông, nơi nào có nước thì nơi ấy có sự sống/ vì nhờ có nước thì cây, cỏ mới mọc lên xinh tươi/ gia súc và con người có lương thực để ăn, có nước để uống, con người mới có thể sống được./ Ai chiếm được nguồn nước, người ấy sẽ trở nên giàu có./

12. Người phụ nữ đang hãnh diện về điều gì? Chị ta tự hào vì mình có giếng nước, có cả bình múc nước, chị còn có gia đình, chị còn có đền thờ được xây dựng trên núi Garidim, bởi thế chị mới hợm mình./

13. Chúa Giêsu đánh giá từng thứ chị ta đang có như thế nào? Chị phụ nữ đang tự hài lòng về mình/ nhưng Chúa Giêsu đã chỉ cho chị thấy những gì chị đang có chỉ là những thứ mong manh giả tạo/ Chúa cho rằng nước chị đang có chỉ là phù du vì giếng ấy không có thứ nước hằng sống/ Chúa chỉ cho chị thấy thứ hạnh phúc mà chị đang có chỉ là hư ảo./ Bởi chị đang xây dựng hạnh phúc trên một mối duyên hờ./ Đền thờ mà chị đang tin/ không đáng cho chị tin, bởi không có Thiên Chúa ngự trong đó/ chỉ là một đống gạch đá vô hồn./

14. Thật sự chi đang có thứ gì? Trong phút chốc, chị ta trở nên thật nghèo hèn/ trước đây chị tưởng mình có tất cả/ bây giờ chị thấy mình đang trắng tay/ chị đã bị Chúa Giêsu bóc đi lớp vỏ bọt bèo, phù du/ giờ thì chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng/ nhưng từ đáy vực sâu khốn cùng ấy, chị thấy có một niềm tin đang nhen nhúm/ một mạch suối đang dâng trào.

15. Chị tỉnh ngộ ra điều gì? Những thứ mà trước kia chị cứ tưởng là thành lũy che chở đời chị, hóa ra nó chỉ là tảng đá ngăn chặn dòng suối/ gỡ bỏ đá đi, rồi thì dòng suối ồ ạt chảy đi/ những thứ mà trước kia chị nấp vào vì cứ tưởng nó là nơi nương tựa êm ấm/ nào ngờ nó chỉ là nơi giam hãm đời chị của một cái tổ kén/ khi trút bỏ được lớp vỏ kén ấy rồi/ chị như cánh bướm muôn màu tung bay khắp nơi /

 

Bài: 2  LỜI CHÚA NHƯ NHỊP CẦU

Chia sẻ cho nhau ý nghĩa bài Tin Mừng:

16. Thứ gì đang che mắt người phụ nữ? Có 3 thứ: Của cải/ dục vọng và thứ tôn giáo vụ hình thức./ Chúng ta hãy trở lại từ đầu: Khi Chúa Giêsu ngỏ lời xin nước, thì chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách/ nhưng khi ngước nhìn lên, chị nhìn thấy Đấng đối diện mình lại cao cả hơn tổ phụ Gia cóp/ lần đối diện thứ hai, chị nhận ra Người là một tiên tri/ đến lần đối diện thứ ba, chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu thế và chị tin vào Người./

17. Chị đã nhìn thấy gì? Niềm tin trào dâng, hạnh phúc trào dâng/ chị nhìn thấy Chúa Giêsu như Đấng mà chị hằng mong đợi/ chị quên cả múc nước, quên cả bình nước/ chị mau chạy về làng báo tin./

18. Chị quá hạnh phúc nên đã quên tất cả, bỏ lại tất cả/ Chị đã quên chiếc bình, bởi chiếc bình từ nay trở thành thứ vô dụng, chị cũng bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ/ cả ngôi đền trống rỗng./

19. Tác dụng của lời Chúa với chị như thế nào? Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén mổ xẻ đời chị/ mãnh đời cũ chị đã để lại bên giếng, tượng trưng cho kho tàng của trần gian./ Mãnh đời mới của chị đang ngụp lặng trong dòng suối đức tin => đó mới chính là kho tàng Thiên Quốc! Lời Chúa như đuốc soi đường, nhờ đó chị bước đi nhanh nhẹn, vững chắc hướng về nguồn sống mới!

20. Chị đã nhìn thấy thứ gì? Chị nhìn thấy lời Chúa như chiếc cầu đưa chị vào đời sống tâm linh/ chị bỏ lại chiếc bình múc nước, bởi vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh/ chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, bởi vì bên kia chị đã có một tình yêu đích thực/ chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng/ bởi vì ở phía bên kia cầu chị đã gặp được Đấng phải tôn thờ trong Đức tin và chân lý./

21. Lời Chúa là gì? Như là chiếc gươm hai lưỡi có thể phân chia trắng đen/ có thể giúp chị thoát ly tội lỗi, thoát khỏi thói đi tìm sự bình an giả tạo, thói đạo đức vụ hình thức./ Xin lời Chúa cũng bứng đi hòn đá trì trệ, để dòng suối tin yêu được khai thông/ để nước mắt sám hối luôn tuôn trào rửa sạch mọi tội lỗi/ để lửa tình yêu bừng cháy, đem lại cho linh hồn là sự ấp áp của nguồn hạnh phúc chân thật./

22. Thế nào là một ơn hoán cải? Đang thỏa mãn với những nhu cầu vật chất, chị phụ nữ lại thấy thiếu thốn về mặt tinh thần/ đây quả là một ơn hoán cải quan trọng mà Chúa vừa ban cho chị/ Chị đã được ơn sám hối khi cảm thấy khao khát một đời sống đạo đức tâm linh./ Chị cảm thấy Chúa Giêsu là nguồn suối trong lành, một nguồn hạnh phúc vô tận mà chị vừa tìm thấy./

23. Một cuộc gặp gỡ ô nhơ: Sau nửa ngày hành trình từ Yudea về Galilê Chúa Giêsu đến địa hạt Samari và nghỉ mệt bên một bờ giếng/ giữa cái nắng gay gắt ban trưa, Chúa Giêsu vừa đói, vừa khát/ các môn đệ đã đi hết vào thành, chỉ còn một mình Đức Giêsu/ chính nơi này đã diễn ra một cuộc gặp gỡ ô nhơ, một cuộc gặp không đáng có!

24. Chúa đã bắt ngang một nhịp cầu như thế nào? Chúa mở đầu cuộc hội thoại bằng một lời xin/ Chúa không mắc cỡ khi nói lên sự thiếu thốn của mình/ mở lời xin nước uống như bắt một nhịp cầu qua hai vực sâu ngăn cách giữa hai dân tộc Do Thái và Samari vốn dĩ đã thù ghét nhau từ bốn thế kỷ trước ./

25. Chúa Giêsu đã phá bỏ điều gì? Chẳng ai có thể ngờ rằng: Một bậc Thầy như Đức Giêsu lại mở lời xin nước với một phụ nữ Samari/ Chúa Giêsu đã xóa bỏ rào ngăn cách để xây dựng một cuộc đối thoại bình đẵng, đích thực/ đâu ai ngờ rằng: Người xin nước lại chính là người muốn cho.

26. Chúa đang xin hay Chúa đang muốn cho? Ai cũng có điều cần xin trước khi họ cần chúng ta giúp đỡ/ Chúa đang khát nước theo thể chất, nhưng lại muốn cho thứ nước về phần tâm linh, thứ nước uống vào sẽ không còn khát nữa/ chị phụ nữ liền xin, nhưng chị nào biết chị đang nếm thứ nước ấy rồi!

27. Lời Chúa tác động chị ta như thế nào? Lời Chúa cho thấy Ngài biết rõ gia cảnh của chị/ lời Chúa vén mở cho chị thấy con người thâm sâu của Ngài/ Ngài biết rõ gia cảnh của chị không nhầm soi mói, nhưng để cảm thông/ cái biết của Ngài về những riêng tư thầm kín của đời chị/ khiến cho chị nhận ra Ngài là một ngôn sứ./

28. Chị ta bận tâm điều gì? Khi nhận ra Chúa là một ngôn sứ/ chính chị cảm thấy có mối bận tâm về tôn giáo/ chị cũng đang mong đợi Đấng Messia/ rồi cũng vì mối bận tâm này mà chị đã bỏ vò nước lại / hân hoan chạy về giới thiệu Đức Giêsu cho đồng bào mình!

29. Chị đã tìm thấy điều gì từ nơi Đức Giêsu? Chị đã tìm thấy thứ nước tuyệt diệu ấy nơi Đức Giêsu/ Ngài đã tỏ mình cho chị/ chị cũng chẳng thấy Chúa Giêsu đả động đến chuyện ăn hay uống./ Bởi Ngài đã từng nói: Lương thực của Thầy chính là thi hành ý Đấng đã sai Thầy/ Chúa Giêsu chỉ đói một điều là nuôi dưỡng linh hồn nhân loại/ Chúa chỉ khát một điều là ban nguồn nước sự sống cho chúng ta./

30. Nhân loại hôm nay đang dư điều gì và thiếu điều gì? Con người có thể đang dư cơm, dư áo, dư nước uống ,dư vật chất / Nhưng họ lại đang đói khát: tình bạn, tình yêu, lòng tin, niềm hy vọng/ khát ý nghĩa cuộc sống, khát sự trung thực đói tình thương ./ Chúng ta có dám chạy đến cùng Chúa Giêsu để kín múc cho thật nhiều những thứ đó và đem về ban phát lại cho anh em chung quanh chúng ta không?

 

Bài: 3  TÌM HIỂU Ý NGHĨA

Chia sẻ cho nhau ý nghĩa bài Tin Mừng:

31. Gốc tích người Samari: Samari là chủng tộc lai tạp từ dân ngoại nhập cư và những người Do Thái đáng thương bị bỏ lại trong thời lưu đày đế quốc Assua (722 TCN) và đế quốc Babylon (586 TCN) lịch trước công nguyên thì đếm ngược từ 9 => 1/ lịch sau công nguyên đếm từ 1=> 9/ hai giống người này kết hợp với nhau và sản sinh ra người Samari/ nên họ vừa bị dân ngoại coi thường / vừa bị dân Do Thái ghét bỏ/ cũng vì họ là dân lai căng nên Do Thái khinh miệt họ/ vì thế họ bị từ chối cử hành các phụng vụ tại Yerusalem/. Họ đã lập đền thờ riêng tại núi Garidim/ Dân Samari chỉ nhận có 5 cuốn ngũ thư/ còn Do Thái thì nhận: Ngũ thư, ngôn sứ, văn phẩm, sách linh ứng, (24 cuốn)./

32. Tại sao người đàn bà này đi múc nước vào giờ chính ngọ? Chị đàn bà này chỉ dám đi múc nước vào giờ trưa/ giờ nắng nhất, giờ mà người khác đang nghỉ ngơi/ giếng sẽ rất vắng/ chị muốn tránh mặt mọi người, bởi chị là loại đàn bà tai tiếng/ đã có qua năm đời chồng và hiện đang sống chung với người chồng hờ, chị sợ gặp mặt họ sẽ bị săm soi, cạnh mé, chê bai, rủa sả./

33. Bối cảnh câu chuyện: Chúng ta chứng kiến Chúa Giêsu đang khởi đầu đời sống công khai/ người rời xứ Yudea , vì ở đó Người gặt hái được nhiều thành công, uy tính của Người tăng cao khiến cho bọn biệt phái tức giận./ Trong giai đoạn này Chúa không muốn gây ra cuộc tranh chấp với bọn họ/ bọn họ đang giăng bẩy khắp mọi nơi nhằm làm giảm uy tính và cũng tìm cớ để triệt hạ Người/ nên Người thay đổi địa bàn, băng qua Samari để lên miền Galilê là địa bàn Người đang muốn chuyển đổi/ và nghỉ rằng nơi miền bắc sẽ thích hợp hơn cho việc truyền giảng Đức tin và ơn cứu độ./ Chính tại Samari hôn nay đã xảy ra cuộc gặp gỡ mở màng cho việc rao giảng tin mừng cho dân ngoại trên toàn thế giới! Hôm nay Chúa Giêsu dừng lại ở chân núi Garidim/ từ 400 năm nay, đây chính là ngọn núi Thánh của dân bản xứ Samari/ Vì hai dân tộc kình dịch nhau nên người Samari đã biến ngọn núi này thành nơi để cạnh tranh với đền Thánh Yerusalem ở miền nam ./

34. Chúa Giêsu muốn dùng thứ gì để mạc khải sứ mệnh? Đi đường xa mệt mỏi, Chúa Giêsu ngồi xuống bên bờ giếng Giacop, trong khi các môn đệ đi vào làng mua thức ăn/ trong cuộc đối thoại với người đàn bà đang múc nước, ta thấy ngay ý Chúa muốn dùngnước để làm biểu tượng mạc khải sứ mệnh và công bố danh tính của Người/ ở đây chúng ta ghi nhận một bài học tuyệt vời của Chúa, khi Chúa muốn dùng một thứ vật chất tầm thường nhất để giúp con người nhận ra điều cao cả nhất/ đó là nước vật chất và nước trường sinh./

35. Chúa Giêsu đã bắt đầu câu chuyện gợi ý thế nào? Trước hết, Chúa gợi óc tò mò của người phụ nữ/ Người đã đặt mình vào một nhu cầu ở mức tầm thường của đời sống hằng ngày/ vào mức của công việc múc nước/ Người làm cho chị ta phải băng khoăn suy nghĩ rằng: Con người cần có thứ nước đó để sống, nhưng đây chỉ mới là nhu cầu vật chất phần xác/ khát rồi lại uống và phải uống mãi/ thế thì làm sao để có thứ nước ban sự sống, chỉ uống một lần là không còn khát nữa/ chị ta muốn thoát khỏi sự vất vả mỗi ngày, đồng thời chị cũng khao khát muốn biết Chúa muốn nói về điều gì/ bởi chị cũng chưa hiểu rõ ./

36. Có cách nào để ta nhận ra Chúa? Chúa đang hiện diện rất gần gũi với đời sống thường ngày của ta/ ta có muốn đối thoại với Người không?/ Chúng ta có dám chấp nhận rằng: Không phải chỉ có những của cải vật chất mới là quan trọng/ ta cố gắng làm sao đừng bị vật chất hóa, nghĩa là không phải chỉ có nước nuôi thân xác mà thôi/ mà còn có thứ nước trường sinh/ có phải đó chính là những kinh nguyện và các việc phụng tự Chúa không/ Có phải đó chính là các bí tích Thánh không? Hãy tìm Chúa theo thứ tự ưu tiên!

37. Một câu chuyện/ Có một người Ảrập nghèo đi băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát mệt lã/ tình cờ người đó bắt gặp một khe suối/ với tất cả tấm lòng biết ơn, ông ta uống từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả/ ông múc thêm một bầu da đầy và tiếp tục cuộc hành trình./ Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến được thủ đô Baghda, tìm đủ cách để xin tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan chính bầu nước ấy/ Quan đầu tỉnh đón nhận bầu nước ấy cách vui vẻ/ cho nước vào ly, ông uống cạn và cảm ơn người Ảrập/ đồng thời tưởng thưởng cho ông ta một cách quảng đại/ những người hầu cận quan, ai cũng tưởng đó là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong muốn được nếm thử/ nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối/ Đợi cho người Ảrập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình: Nước nếu đựng lâu trong bầu da, đã trở nên bẩn và hôi thối/ Quan nghĩ rằng: nếu tất cả mọi người đều uống thứ nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt người Ảrập./ Hẳn ông ta sẽ bị tổn thương/ người Ảrập cứ tưởng mình trao tặng cho quan đầu tỉnh món quà kỳ diệu/ hóa ra chính quan đầu tỉnh mới là người tặng cho ông ta món quà vô giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm đậm tình người/

38. Người phụ nữ Samari cứ tưởng mình làm ơn cho Đức Giêsu khi cho Người uống thứ nước từ giếng Giacop/ hóa ra Chúa Giêsu mới chính là vị ân nhân đã ban cho bà một thứ nước kỳ diệu/ khi uống vào sẽ không còn phải khát nữa./

39. Nước hằng sống là thứ nước gì? Nước đó chính là lời Đức Giêsu/ lời bày tỏ sự kín nhiệm của Người/ Là Đấng Messia sẽ đến/ để rồi cuối cùng, Người đã tự tỏ mình ra, không phải lo cho người Do Thái đồng hương/ không phải cho các môn đệ thân yêu, mà là cho chính chị => người phụ nữ Samari/ “Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây” (Yn 4,26)

 

Bài 4: NHỮNG ĐIỀU CẦN NHỚ

Chia sẻ cho nhau ý nghĩa bài Tin Mừng:

1. Lương thực của Chúa Giêsu là đồng lúa vàng đang cần thợ gặt./

2. Thiên Chúa đang khao khát chúng ta, chúng ta đang khao khát điều gì?chúng ta đang khao khát Chúa /

3. Sự sống thế gian bao gồm:   Ánh sáng,   không khí    và nước.

4. Uống nước phải nhớ nguồn/ vì có dư dật nên không cần nhớ.

5. Nước lụt Đại Hồng Thủy/ nước ở biển đỏ/ nước giếng rửa tội, nước tẩy uế/ nước trị phong cùi./

6. Giếng Giacop tại ngã 3 đường / tại làng Sikar ,dưới chân núi Garidim .

7. Chính người phụ nữ mới là người khát nước./

8. Con người sinh ra trong giới hạn/ nhưng lại có khát vọng vô hạn/ chính vì khát vọng không được lấp đầy nên sẽ gây ra biết bao đau khổ cho kiếp người ./

9. Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, thế mà lâu nay con chỉ đi tìm những thứ gì ngoài Chúa/ Vậy nên con luôn thao thức mãi cho đến khi tìm gặp được Chúa và được an nghỉ trong Chúa./ Lạy Chúa con đã đến với Chúa quá muộn/ con đã yêu Chúa quá muộn   /       (Thánh Augustinô )

10. Samari bị Do Thái coi là kẻ thù/ kẻ thù của dân tộc/ vì dân Do Thái mà lại đi kết thân, đi lập gia đình với ngoại bang, họ là kẻ thù coi thường luật Chúa/ luật Moisen/ Họ không còn xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của Thiên Chúa./

11. Người phụ nữ có 5 đời chồng và đang sống với một người đàn ông không phải chồng mình/ đây là một con người tội lỗi công khai. Ngoan cố sống trong tội / vui lòng với tội lỗi của mình/ đây là một trường hợp hết thuốc chữa./

12. Một người Do Thái không bao giờ nói chuyện với người Samari/ một bậc Thầy Do Thái không bao giờ nói chuyện với người phụ nữ nơi công cộng/ Chúa Giêsu đã vượt qua hai định kiến xấu này/ để đến với những con người tội lỗi /

13. Người đàn bà tưởng mình làm ơn cho Chúa, nhưng hóa ra chính Chúa mới làm ơn cho bà./

14. Cơn đói khát của Chúa Giêsu là mong mọi người nhận biết Chúa Cha.

15. Chúng ta sẽ làm thỏa mãn cơn khát của Chúa khi làm theo người phụ nữ./ Đó là đi loan báo cho người khác biết:    Chính Người lá Đấng Messia.

16. Chúng ta làm cho Chúa bớt khát khi chúng ta tin vào Chúa.

17. Đối với vùng Samạc, giọt nước là giọt máu/ cái gì ít chúng ta mới quý/ cái gì nhiều chúng ta sẽ phung phí/    nước nhiều quá sẽ gây lụt lội   / đáng kinh sợ./

18. Nước do Thiên Chúa tạo dựng/ nước Hồng Thủy diệt trừ kẻ vô luân/ chỉ chừa lại người công chính/ nước biển đỏ cứu Do Thái, vùi dập quân của vua Phara-on.

19. Nước làm mát mẽ, đổi mới/ nước rửa tội đổi mới đời sống thiêng liêng.

20. Nước thanh luyện, tẩy sạch, trừ bệnh cùi./ Tẩy sạch mọi ô uế tình dục/ rửa chân các môn đệ/ nước rửa tội xóa bỏ mọi vết nhơ tội lỗi của nguyên tổ .

21. Nước hằng sống xuất phát từ tái tim yêu thương của Chúa.

22. Nước sông Babylon chứng kiến sự thống hối của dân tộc Do thái lưu vong/ nước sông Yodan chữa lành Na-a-man/ Xóa bỏ tội lỗi cho dân tộc Do Thái.

23. Nước cạnh sườn Chúa tha tội cho tên trộm lành/ tha tội cho toàn thể nhân loại.

24. Nước hằng sống không bao giờ bị ô nhiễm.

25. Tên ăn mày tặng hạt lúa cho nhà vua/ nhà vua bỏ vào túi tên ăn mày một hạt kim cương/ vậy thì ai làm ơn cho ai?

26. ước khi làm phép lạ/ Chúa sẽ xin một điều gì trước/ ngài xin các đầy tớ đổ nước đầy vào các chum/  xin em bé 5 chiếc bánh và 2 con cá/

27. Gặp Chúa, sau đó thay đổi như là: Nicôdêmô, Matta và Maria, người phụ nữ ngoại tình/ người phụ nữ Samaria.

28. Gặp Chúa, đi từ ngô nhận => đến hiểu biết./

29. Người đàn bà lúc đầu mỉa mai, châm biếm Chúa/ Sau đó chị ta khát vọng tìm Chúa/ chỉ có Chúa mới làm cho lòng chị no thỏa.

30. Khi gặp Chúa, nhận ra Chúa rồi/ chị vội chạy về báo tin cho dân làng/ Philiphê gặp Chúa nên báo cho Nathana-en / Anrê gặp Chúa liền chạy về báo cho Phêrô/ Madalena gặp Chúa nên chạy về báo cho các môn đệ./ chúng ta gặp Chúa rồi ,chúng ta đã báo cho ai chưa ?

31. Chúng ta gặp Chúa như cá nhân, như chứng nhân, sau đó trở nên nhà truyền giáo, đi loan báo tin mừng.

32. Chị phụ nữ gặp Chúa nên quá vui/ quên mất mọi sự xấu hổ do tội lỗi mình gây ra.

33. Câu chuyện: “Các sinh vật và thói quen”/ Chúng ta thường giữ đạo theo thói quen chứ không phải do lòng tin,hay do lòng yêu mến Chúa/ tuy không phải là không tin có Chúa/ nhưng luôn giữ đạo cách thờ ơ/ được chăng hay chớ/ nhiều khi vô nhà thờ nhưng cung cách như đang ở quán cafê hay đang ở ngoài đường, ngoài chợ./

 

TÓM Ý

1. Người Do Thái quý nước vì trong Sa mạc, vùng đất Palestin mưa ít, nhiệt độ lại cao/ con người không thể nhịn nước lâu như nhịn ăn được/ nhiệt độ nóng của chúng ta là 35oC/ bên họ là từ 45oC-> 50oC, có chỗ còn cao hơn .

2. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy có hai loại nước uống/ nước uống phần xác và nước uống dành cho tâm linh gọi là nước hằng sống./

3. Người Do Thái coi dân Samari như kẻ thù/ Chúa Giêsu vượt qua mọi rào cản/ Chúa muốn cứu mọi người nên không coi ai là kẻ thù/ Chúa dùng một người đàn bà tội lỗi ngoại giáo này như một bước khởi đầu Chúa đến với dân ngoại.

4. Chúa Giêsu xin nước nhưng chính Ngài lại là người cho nước.

5. Do Thái và Samari ghét nhau bởi vì Do Thái tự cho mình mới là người xứng đáng, là dân Chúa chọn/ trong khi tiêu chuẩn chọn lựa của Chúa lại khác xa cách hành xử của con người./

6. Chị phụ nữ nhận ra Chúa là Đấng Messia và muốn Chúa có cách can thiệp để hòa giải giữa hai dân tộc./

7. Thờ phượng Chúa trong tinh thần là đúng nhất/ chứ không phải chỉ vịn vào hình thức bề ngoài: Nơi này, nơi nọ, người này, người kia mới xứng đáng.

8. Con người muốn gặp được Thiên Chúa phải vượt qua giới hạn của mình/ chúng ta cần có một nhịp cầu/ nhịp cầu đưa chúng ta đến với Thiên Chúa chính là Chúa Giêsu, vị trung gian các ơn.

9. Chị phụ nữ coi thường Chúa Giêsu, bởi chị chỉ nhìn, chỉ dựa vào những thứ vật chất chị đang có như giếng nước, gàu, bình, hạnh phúc gia đình, ngôn đền thờ bằng gỗ đá/ trong khi Chúa cho chị biết những thứ chị đang có chỉ là tạm bợ/ nước hằng sống mới là thứ vĩnh cửu./

10. Sau khi nghe Chúa Giêsu giải thích/ chị đã nhận ra những thứ chị đang có chẳng có giá trị gì nhiều/ vì tất cả chỉ là phù du/ chỉ có Đức tin và lòng mến mới đưa chị đến nguồn sống vĩnh cửu./

11. Những thứ đang che mắt chị, đó là của cải, dục vọng và thứ tôn giáo vụ hình thức bề ngoài./

12. Chị càng nhìn Chúa, chị càng nhận ra: Ngài là một ngôn sứ, sau cùng chị nhận ra Ngài là Đấng Messia, Đấng cứu thế, chị đã tin/ chị quá vui sướng nên vội vã chạy về làng báo tin.

13. Lời Chúa Giêsu đã giúp chị nhận ra đâu là thật, đâu là giả, đâu là tạm bợ, đâu là vĩnh cửu, đâu là điều đúng, điều sai/ đâu là tội lỗi , đâu là sự công chính/ đâu là tình yêu đích thực./ Lời Chúa giúp chị sám hối./

14. Ơn hoán cải giúp chị thấy chị có một chút vật chất tạm bợ, nhưng hoàn toàn thiếu thốn về mặt tâm linh./ Chị khao khát sống đạo đức, chị nhận ra Chúa Giêsu chính là mạch nước trường sinh.

15. Chúa Giêsu vờ hỏi xin nước, nhưng thật sự là Chúa đang muốn ban ơn/ Chúa khát là khát phần rỗi linh hồn nhân loại/ Chúa đói là đói tình yêu nhân loại/ lương thực của Chúa là luôn muốn chu toàn Thánh ý Chúa Cha/ Là khát khao cho mọi người nhận biết Chúa Cha./

16. Chúa Giêsu muốn cho mọi người biết => ở nơi Chúa chỉ có tình thương chứ không có kẻ thù/ Chúa đi gieo rắt yêu thương chứ không phải đi chiến đấu với kẻ thù/ Chúa muốn giảng hòa/ Chúa muốn bình an/ Chúa đi tìm yêu thương và xóa bỏ thù hận.

17. Lời Chúa giúp chị phụ nữ nhận ra tội lỗi sai trái của mình / Lời Chúa vén mở cho chị thấy ý định thâm sâu của Chúa/ Chúa biết mọi sự nơi hoàn cảnh chị ,không phải để soi mói nhưng để cảm thông giúp đỡ.

18. Nhân loại hôm nay đang dư thừa của ăn vật chất nhưng lại quá đói khát về tình yêu, bởi thế của ăn vật chất tuy nhiều, tuy dư thừa nhưng do con người quá ích kỷ nên phân bổ không đồng đều/ rốt cuộc kẻ ăn không hết, người lần không ra /nên đã có quá nhiều người chết đói!

19. Bởi con người quá kêu căng, ích kỷ nên cứ nhìn thấy những người tội lỗi,những người kém may mắn như những con quái vật cần xa lánh/ chính vì thế chị phụ nữ tội lỗi đã không dám đi kín nước vào giờ khác vì sợ bị kẻ khác đay nghiến, chê cười.

20. Biệt phái và dân ở Yerusalem không chịu nhận ra Chúa, họ ngộ nhận khi thấy xuất thân của Chúa nghèo hèn./ Họ ganh ghét vì thấy Chúa làm được nhiều việc lạ /nhưng vì thành kiến nên nhất định không chịu tin./ Chính vì thế Chúa phải tránh xa họ, phải thay đổi địa bàn/ phải đến với dân ngoại./

21. Chúa muốn dùng nước, một thứ vật chất tầm thường, rẻ tiền nhất để mạc khải về nước trường sinh và công bố danh tính của mình./

22. Con người luôn khao khát những điều chân thiện mỹ, nhưng vì bị vật chất bao bọc quá kỷ nên không thể nhìn thấy những điều tầm thường nhưng cao cả đang ở chung quanh mình/ con người luôn bị vật chất hóa, nên đầu ốc trở nên u tối/ không thể nhận ra thứ gì thật sự quý giá/ thứ gì là tầm thường./

23. Nước hằng sống chính là Thánh thể Chúa, là lời Chúa qua kinh thánh./ Là lời giáo huấn của giáo hội/ là hy sinh hãm mình, là cầu nguyện, là làm những việc thiện trong mùa chay/ Lời Chúa đang ở trong tầm tay/ đó chính là thứ nước trường sinh mà con người cần phải tìm, cần phải uống để khỏi phải đói khát nữa./

 GiuseLuca, KT Emmaus

 


Trở lại      In      Số lần xem: 1563
Tin tức liên quan
Video
BG CN 25 TN B-TGM GIUSE NGUYEN NANG
Bài Giảng CN LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG A
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  22
 Hôm nay:  3317
 Hôm qua:  1814
 Tuần trước:  27315
 Tháng trước:  97734
 Tất cả:  11353621
LIKE FACEBOOK
Thông tin liên hệ
- Mọiýkiếnxingửivề:GiuseLucaTrươngĐìnhNghi
- Giáodânbấtxứng /Quảnlýwebsite.
- Email: ditimhanhphuc1974@gmail.com
- Fb:https://www.facebook.com/ditimchanly.org 
-Videos:www.youtube.com/tìmtênDinhNghiTruong
 clickvàologokinhthánh .

Chia sẻ cho bạn bè :
top