CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH / A
Đề tài: Câu chuyện Hai Môn đệ đi về làng Ammaus .
TUNG HÔ TIN MỪNG: x. Lc 24, 32
Lời Chúa :
Haleluia, Haleluia! Lạy Chúa Giê-su , xin mở trí cho chúng con hiểu lời Kinh Thánh. Và khi Chúa phán dạy, xin đốt lòng chúng con cháy lửa nồng nàn. - Haleluia.
PHÚC ÂM: Lc 24, 13-35
« Họ đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh. »
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Lu-ca.
13 Vào ngày ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-maus, cách Yêrusa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Yêrusa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” 19Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-za-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy Thiên Thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.”
25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”
33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Yêrusa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Đó là lời Chúa.
Bài 1: HỌ NHẬN RA CHÚA CÁCH NÀO?
Chia sẻ cho nhau ý nghĩa bài Tin Mừng:
1/ Vì sao hai môn đệ đi về làng Emmaus? Hai môn đệ này có lẽ đã quá thất vọng, không còn tin tưởng, bèn quyết định quay trở về với những người thân yêu nơi quê quán của mình, vì đã tới ngày thứ ba mà họ không có được một nguồn tin nào khác chắc chắn.
2/ Vì sao họ không nhận ra Chúa? Bởi vì cặp mắt họ đã bị che phủ bởi những nổi cay đắng thất vọng, cho dù Chúa vừa đi vừa cắt nghĩa Kinh Thánh nhưng đối với hai ông, Chúa vẫn là một người xa lạ, cho tới khi họ mời Ngài ở lại với họ.
3/ Hai ông đã gặp được Chúa vào lúc nào? Qua câu chuyện chúng ta có thể đi đến một nhận định cụ thể như sau: Hai ông đã được soi sáng và nhận biết Chúa không phải do việc nghe cắt nghĩa Kinh Thánh, nhưng là do một việc làm, một hành động mang tính cách yêu thương, một hành động thực hành lời Chúa /thì mới gặp được Chúa.
4/ Thánh Phaolô đã dạy gì? Thánh Phaolô viết: Không phải những kẻ nghe lề luật mà là những kẻ tuân giữ lề luật thì mới trở nên Công Chính. Bởi đó, khi nghe Lời Chúa, chúng ta phải quyết tâm đem ra thực hành, thì lúc bấy giờ Lời Chúa mới thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta. Các ông đã không nhận ra Chúa khi nghe Chúa cắt nghĩa Kinh Thánh, nhưng các ông nhận ra Chúa khi mời Chúa lưu lại nhà mình. Chính vì thế chúng ta cần cố gắng thực hiện những việc bác ái.
5/ Hãy tả về hoạt cảnh của ngày phán xét: Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta hãy kiên trì trong đức ái. Thánh Phêrô thì dạy: Hãy rộng lượng đón nhận người khác chứ đừng lẩm bẩm kêu trách, còn Chúa Yesus thì mô tả hoạt động phán xét: “vì khi Ta đói, các con đã cho Ta ăn, Ta khát các con đã cho Ta uống, Ta mình trần các con đã cho Ta mặc, khi Ta đau yếu tù đày các con đã viếng thăm, Ta là khách bộ hành các con đã cho Ta ở trọ”.
6/ Một câu chuyện về người khách lạ: Câu chuyện kể lại rằng: một người cha trong gia đình rất có lòng hiếu khách, ông thường mời những người lạ, thường là những người nghèo đói, túng thiếu đến nhà ăn cơm. Một ngày kia đang lúc ông rửa tay cho một người khách lạ và đang lúc dẫn vị khách ấy lại bàn ăn, thì vị khách ấy lại biến mất khiến ông vô cùng ngạc nhiên. Thế nhưng đêm đó, Chúa Yesus hiện ra với ông trong giấc ngủ và phán rằng: Những ngày khác con đã đón nhận các chi thể của Ta, còn hôm nay thì con đã đón nhận chính Ta!
7/ Ngày phán xét, Chúa đã nói gì? Đến ngày phán xét, chúng ta sẽ nghe Chúa nói: Những gì chúng con đã làm cho một kẻ hèn mọn nhất, chính là các con đã làm cho Ta, Vì Chúa Yesus luôn hiện diện nơi những người đau khổ, bất hạnh, thế nhưng liệu chúng ta có nhận biết và giúp đỡ cho Ngài không?
8/ Chúa Phục Sinh đến với hai môn đệ vào thời điểm nào? Chúa đến với hai ông dưới dáng dấp của một người khách lạ, Ngài đến đúng vào lúc hai ông đã quá thất vọng và đang bỏ cuộc, hai ông đang quay quắt và ray rức vì chuyện đã qua, Ngài đi bên cạnh họ, Ngài khiêm tốn để trở nên bạn đồng hành, Ngài muốn gợi chuyện, Ngài muốn tham gia vào câu chuyện đang dở dang của họ.
9/ Cách Chúa Yesus thể hiện sự nhẫn nại: Họ trả lời lạnh nhạt nhưng Chúa không nản lòng, họ cười cợt vì sự thiếu hiểu biết của Chúa: “Chắc chỉ có ông….”.nhưng Chúa Yesus vẫn nhẫn nại, giả vờ như không biết gì: Chuyện gì vậy? Chúa giả vờ như không biết gì để lắng nghe họ nói cho vơi đi nổi niềm, nhưng Chúa cũng chợt nhận ra nổi niềm hy vọng của họ trước kia, giờ đây chỉ còn là quá khứ, niềm tin của các ông đã trở nên chai lì, bởi vì họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ rồi chạy về thuật lại.
10/ Khi đang thất vọng nhất thì họ đã nghĩ Chúa là ai? Khi lắng nghe họ nói, Chúa nhận ra mấu chốt của vấn đề, nhưng câu hỏi mà họ chưa thể tìm ra lời giải đáp: một người như Chúa Yesus, Người mà họ luôn tin là Đức Kitô, lại đang bị đóng đinh như một kẻ tội đồ, như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ?
11/ Đau khổ đóng vai trò gì trong chương trình cứu độ? Chúa Yesus đã dùng Kinh Thánh để giải thích cho các ông, Chúa cũng đã vén mở ý nghĩa của màu nhiệm đau khổ / đau khổ là nhịp cầu mà Đức Kitô phải vượt qua vì bên kia bờ là niềm vinh quang bất diệt. Đau khổ không phải là chuyện kém may mắn, rủi ro. Nhưng nó có chỗ đứng, nó là nấc thang trong chương trình cứu độ, thánh giá đối với loài người là nỗi ô nhục, đối với Chúa là niềm vinh quang phục sinh.
12/ Do đâu họ nhận ra Chúa? Họ cố nài ép, mời Chúa ở lại dùng bữa ăn chiều, và cũng chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ, thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Yesus.
13/ Rút kinh nghiệm từ hai môn đệ Emmaus là gì? Kinh nghiệm từ hai môn đệ cũng là kinh nghiệm dành cho chúng ta, chính lúc ta tưởng rằng mất Chúa thì Ngài lại đang ở gần bên, lúc ta nhận ra Ngài đang ở gần bên thì Ngài lại biến đi mất rồi. Nhưng chính lúc Ngài biến mất thì ta lại cảm nghiệm sâu xa hơn sự hiện diện của Ngài.
14/ Đấng phục sinh hôm nay sẽ mang hình hài như thế nào? Đấng phục sinh đến với ta qua một người lạ, người quen mà ta gặp tình cờ, nói chuyện với Ngài và qua Ngài ta có được niềm tin yêu, hy vọng, muốn sống như Chúa phục sinh, ta phải tập đến với tha nhân, tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập chia sẻ với họ.
15/ Tại sao vẫn có nhiều người lê gót đi về Emmaus? Hai môn đệ đi theo Chúa nhưng lại hiểu sai về đường lối của Chúa. Họ chỉ tin Chúa nửa vời nên khi nhìn thấy Chúa bị bắt, bị giết chết, họ đâm ra ngã lòng, người Kitô hữu của chúng ta cũng tin Chúa kiểu này, khi thịnh vượng thì phấn khởi, hồ hỡi theo Chúa, nhưng khi gặp điều trái ý, thất bại, khổ đau thì ngã lòng trông cậy. Vì quá buồn phiền, quá thất vọng nên chẳng còn thấy Chúa đâu nữa cả, cho dù Chúa đang đi bên cạnh.***
Bài 2: TIA SÁNG GIỮA MÀN ĐÊM U TỐI
Chia sẻ cho nhau ý nghĩa bài Tin Mừng:
16/ Bài tin mừng hôm nay chất chứa điều gì? Bài tin mừng hôm nay rất đẹp, rất hay vì nó chất chứa một niềm hy vọng trong sáng, như luồng ánh sáng xưa tan mọi bóng tối thất vọng não nề.
17/ Dấu hiệu nào cho thấy hai môn đệ này đã sa sút niềm tin? Hai môn rời Yerusa-lem trở về làng cũ, Yerusa-lem là trung tâm tôn giáo, rời bỏ Yerusa-lem là dấu hiệu của sự chán nãn, bất cần, buông xuôi. Trước kia hai ông bỏ mọi sự mà theo Chúa, nay hai ông tháo lui, trở về như kẻ thua cuộc, ngày ra đi mang theo giấc mộng thành đạt, ngày trở về mang nặng mối u sầu, sầu vì mất người Thầy yêu quý, sầu vì vỡ mộng, hai tâm hồn cất bước đi trong não nề.
18/ Giữa lúc buồn tủi nhất thì việc gì đã xảy ra? Giữa lúc tuyệt vọng nhất thì Chúa Yesus đã xuất hiện, như luồng sáng rực lên giữa đêm đen, niềm vui xóa tan u sầu, ngọn lửa bừng lên sưởi ấm hai trái tim lạnh giá, nơi nào có Chúa ngự đến, nơi đó nhập tràn niềm vui và hy vọng.
19/ Các luồng ánh sáng hy vọng đến từ đâu? Luồng sáng đức tin => hai môn đệ có mặt trong cuộc sống của Chúa Yesus và chứng kiến cái chết của Ngài từ đầu đến cuối, Các ông đã thấy bao nhiêu phép lạ, các ông đã nghe bao nhiêu lời giáo huấn, các ông đã công nhận Ngài là một ngôn sứ cao cả, các ông luôn mong Người là Đấng giải thoát cho dân tộc Israel. Nhưng những việc oái ăm xảy ra trong những ngày vừa qua khiến các ông quá chán nản thất vọng, thất vọng đến nỗi các phụ nữ báo tin Chúa đã phục sinh nhưng các ông nào dám tin.
20/ Chúa Yesus quở trách thế nào? Lòng trí các anh sao mà chậm tin? Chúa Yesus kêu gọi đức tin trở về, Chúa khơi dậy niềm tin đã lụi tàn nơi con người các ông, nhưng khi có đức tin, các ông hiểu hết. Đức tin như nguồn sáng giúp chúng ta hiểu hết ý nghĩa của các biến cố trong đời, đức tin là đóm lửa trong đêm đen hy vọng.
21/ Lời Chúa mang đến điều gì? Các môn đệ đọc vanh vách các sách lề luật của Moisen, ngôn sứ, Thánh vịnh, nhưng các ông vẫn thất vọng, các ông đọc thuộc nhưng không hiểu Kinh Thánh, Các ông đọc kinh thánh và thuộc bài, các ông chỉ thuộc những bản văn, những nét chữ vô hồn.
22/ Nhờ đâu các ông hiểu được lời Chúa? Nhờ Chúa Yesus như người bạn đồng hành giải thích Kinh Thánh, từ sách lề luật, đến sách ngôn sứ, thánh vịnh, nghe Chúa giải thích đến đâu, con tim các ông rộn ràng đến đó, trí các ông bừng sáng như thể ai đốt lửa trong đầu các ông, Chúa đã dạy các ông một cách đọc kinh thánh kiểu mới, phải đọc giữa hàng chữ để thấy ý nghĩa nhiệm mầu, phải đọc phía sau hàng chữ để thấy ý định kỳ diệu của Thiên Chúa, phải đọc Kinh Thánh với Chúa và phải đọc với trái tim yêu mến.
23/ Cách nào để các ông đón nhận lời Chúa? Phải đọc lời Chúa với trái tim rộng mở và tràn đầy tình yêu mến, lời Chúa sẽ gieo vào tâm hồn ta niềm hy vọng, từ đó chúng ta có thể tìm lại được niềm vui cho cuộc đời.
24/ Chúa luôn hiện diện bên chúng ta bằng cách nào? Chúa vẫn đến với chúng ta qua từng Thánh lễ, Ngài cũng đích thân giảng giải tin mừng và bẻ bánh trao cho chúng ta.
25/ Tại sao chúng ta cần có Chúa? Khi ngắm nhìn Chúa Yesus đến với hai môn đệ đi Emmaus, chúng ta cũng cần bắt chước hai ông xin mời Chúa ở lại, vì chúng ta cần có Chúa hiện diện, nếu mất Chúa chúng ta lại phải đi tìm, chúng con quá yếu đuối nên cần Chúa nâng đỡ để ta khỏi ngã quỵ, không có Chúa, chúng ta mất đi sự nồng nhiệt hăng say.
26/ Sống như chúa phục sinh, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải tập đến với tha nhân, tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập giải thích, tập nhắc nhở và nhất là luôn tìm cách quay lại tìm Chúa và nói với mọi người về Chúa phục sinh.
27/ Nhờ thứ gì nuôi dưỡng niềm hy vọng? Niềm hy vọng trở thành hiện thực khi hai môn đệ thấy Chúa bẻ bánh, chính lúc bẻ bánh mà hai môn đệ nhận ra Chúa phục sinh. Niềm hy vọng đã trở thành hiện thực, chẳng thể nào bán tín bán nghi, hết hoang mang lo lắng, hết còn thấp thỏm lo âu, hết còn hy vọng vì các ông đã gặp chính sự thật.
28/ Nhờ đâu các ông lấy lại sức sống? Cuộc gặp gỡ chỉ thoáng qua sao các ông thấy quá mãn nguyện, Chúa bẻ bánh giúp các ông nhớ lại khi Chúa lập phép Thánh Thể, nhờ Thánh Thể mà con người các ông ra khỏe mạnh, đổi mới, một thân xác mệt nhọc rã rời đã trở nên mạnh mẽ, tươi trẻ, lập tức các ông lên đường trở lại Yerusa-lem.
29/ Hai ông đã làm gì khi lấy lại sức sống? Khi thất vọng thì trở về quê, khi lấy lại hy vọng thì trở về tìm Thầy, tìm anh em. Đường đi ban ngày mà còn thấy xa xôi ngại ngùng, nhưng giờ thì đường đi tăm tối nhưng sao thấy vui tươi gần gủi, lúc đi cho dù có Chúa bên cạnh nhưng vì con mắt đức tin mù tối nên vẫn cảm thấy quá buồn sầu, lúc về tuy không có Thầy nhưng vẫn an tâm vì con mắt đức tin đã sáng bởi vì Thánh Thể là nguồn lương thực nuôi sống niềm hy vọng.
30/ Khi đã có Chúa, các ông cảm thấy thế nào? Nhờ có Thánh Thể đang ở trong lòng nên đường xa trở nên gần, đường buồn trở nên vui, ở với Thánh Thể là ở với Chúa.
31/ Chúng ta nhìn thấy biến cố Emmaus như thế nào? Đời sống không thiếu những giây phút khó khăn tuyệt vọng, qua biến cố này, Chúa dạy ta rằng: Hãy nhìn các biến cố trong đời bằng con mắt đức tin / dưới ánh sáng đức tin, mọi đau khổ sẽ xuất hiện mang một ý nghĩa tốt đẹp cho cuộc đời. Ánh sáng đức tin thắp sáng niềm hy vọng, hãy biết nghe, đọc và suy gẫm lời Chúa, đừng đọc Kinh Thánh như đọc tiểu thuyết, hãy mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa rồi hãy đến với bí tích Thánh Thể để lời Chúa đơm hoa kết trái. Lời Chúa và Thánh Thể cũng là lương thực nuôi dưỡng cuộc đời Kitô hữu chúng ta.
Bài 3: CÂU CHUYỆN 2 LỮ KHÁCH ĐI VỀ EM-MAUS
Chia sẻ cho nhau ý nghĩa bài Tin Mừng:
1/ Chỉ có tin mừng Luca ghi lại câu chuyện này: Trong những ngày xảy ra cuộc khổ hình thập giá của Đức Yesus, hai người khách bộ hành này phải lưu lại Yerusa-lem, bởi họ không thể đi về nhà vì vướng ngày Sabát. Ngày Sabát họ chỉ được đi 1 km, trong khi quãng đường này dài 11 km.
2/ Hai môn đệ này không thuộc nhóm 12: Ông Clé-ô-pát được nêu đích danh, còn môn đệ kia thì không. Họ nhận được tin tức từ các phụ nữ, họ cũng được Chúa Yesus tiên báo “sau 3 ngày”, sẽ có điều gì đó xảy ra. Nhưng xem ra họ đã mất hy vọng nên quyết định không phiêu lưu nữa mà tìm đường trở về Em-maus. Vì ngày sắp tàn nên họ muốn trở về nhà trước khi trời tối.
3/ Chẳng có điều gì cho thấy hai môn đệ này hy vọng Đức Yesus sẽ chỗi dậy từ cõi chết. Việc họ dứt khoát không chịu ở lại Yerusa-lem thêm một ngày nào nữa cho thấy: Họ không hiểu và cũng chẳng tin vào lời Đức Yesus đã tiên báo về cuộc phục sinh của Người. Họ đã từng xem Người là một ngôn sứ và cũng trông chờ Người cứu chuộc Israel (câu 21).
4/ Đoạn 24, câu 15+16: Câu chuyện trên đường Em-maus chứa đầy những tình tiết trớ trêu và ngạc nhiên, diễn tả tình yêu vô bờ mà Chúa Yesus đã dành cho các môn đệ. Dù các môn đệ đã bỏ mặc Chúa Yesus suốt 3 ngày qua, nhưng Chúa Yesus cũng đã tiến lại gần, bất chấp sự sợ hải, ngờ vực, bối rối của họ. Bất chấp những điều đáng buồn đó, Chúa Yesus cũng tiếp tục hiện diện với những người mà Chúa vẫn sẵn sàng chết vì họ.
5/ Cụm từ “tiến lại gần”: Ý nghĩa là triều đại Thiên Chúa đã đến gần, ý nghĩa việc Chúa tiến lên Yerusa-lem là nơi Người chịu chết, từ nàycũng diễn tả việc Chúa Yesus đến lại lần thứ 2.
6/ Chúa Yesus không chỉ đến gần, mà còn cùng đi với họ: Có nghĩa là Chúa Yesus vẫn hiện diện với họ trước cuộc tử nạn và còn sau cuộc tử nạn nữa. Cho dù khi Chúa cần được nâng đỡ thì tất cả những người quen, những môn đệ đều đứng đằng xa (Lc23,49). Thế nhưng Chúa không bỏ mặc những ai cần đến Người. Hôm qua, hôm nay và mãi mãi, hễ ai cần đến Người thì đều được Người nâng đỡ.
7/ Họ không nhận ra: Có nghĩa là mắt họ bị ngăn cản, ý nghĩa là Thiên Chúa là Đấng siêu vượt, còn cái nhìn của con người luôn bị giới hạn, bản chất nước Thiên Chúa vốn là điều bị che khuất khiến mắt Yerusa-lem không thấy được (Lc19,42), mắt ấy đã không biết giờ mà Thiên Chúa đến viếng thăm.
8/ Đoạn 24 câu 17: Sự thiếu hiểu biết của hai môn đệ này khiến cho họ không nhận ra Đức Yesus, vị Thầy mà họ đang thương tiếc, tin mừng không nói vì sao.
9/ Đoạn 24 câu 18: Cléôpát được nêu đích danh, câu này có vẻ như là đang châm biếm, nhưng chỉ có Chúa Yesus mới thật sự biết những gì đang xảy ra, rõ ràng cho đến lúc này, các ông còn hồ nghi, mù mờ cũng giống như tất cả các môn đệ khác.
10/ Đoạn 24 câu 19+20: Chúa Yesus dùng câu “chuyện gì vậy” để nghe họ trình bày quan điểm về những sự kiện xảy ra trong mấy ngày qua. Họ đã hăng say trả lời Người.
11/ Hai người lữ khách tuyên bố Chúa Yesus là một ngôn sứ: Điều này rất có ý nghĩa, bởi vì tính đến khi Yoan Tẩy Giả xuất hiện thì dân Israel trải qua 400 không có ngôn sứ. Sứ vụ của Yoan Tẩy Giả trở thành sứ vụ đi trước Chúa.
12/ Điều quan trọng nhất là gì? Đức Yesus không chỉ là ngôn sứ, nhiều tôn giáo khác cũng công nhận là Đức Yesus là ngôn sứ, nhưng ngôn sứ thì không có quyền tha tội / Yn4 đã chứng minh điều đó, lúc đầu chị phụ nữ Samari, chị nói Đức Yesus là một ngôn sứ (Yn4,19). Cuối cùng khi chị kể cho những Người trong thành rằng chị đã thấy Đức Kitô (Yn4,29), nhưng khi kết thúc câu chuyện thì chị và người dân trong thành đã tin và tuyên xưng: Ngài là Đấng cứu độ trần gian (Yn4,42).
13/ Tương tự như ở trên, Chúa Yesus đã khơi dậy nhận thức của hai môn đệ về Người để các ông hiểu rõ rằng : Người không chỉ là ngôn sứ, nhờ đó các ông đã mạnh dạng loan báo: Chúa đã chỗi dậy thật rồi (Lc24,34).
14/ Cléôpát cho biết Chúa Yesus «đầy uy thế trong việc làm » như sau: Ông vẫn nhớ các phép lạ Thầy mình làm : a) cho kẻ chết sống lại b) Ngài ban lời tha tội (Mt9,2) c) Thầy ban bình an cho anh em (Yn14,27) d) Ai sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném chị này trước đi (Yn8,7), người ta cũng đã nói về Chúa Yesus như sau: Xưa nay chưa hề có ai nói năng như Người ấy (Yn7,46).
15/ Đoạn 24 câu 21 : Có nghĩa là Đấng giải thoát cho Israel, ý Thiên Chúa không phải chỉ là giải cứu cho mỗi dân tộc Israel, nhưng là cho toàn thể vũ trụ.
16/ Họ cũng không hình dung được cách thức mà Chúa Yesus mang lại ơn cứu độ bằng vinh quang trần thế chứ không phải là sự đau khổ, sự chết, sự phục sinh của con Thiên Chúa.
17/ Vấn đề Chúa chết nằm trong mồ 3 ngày, đã gây ra không ít tranh cãi. Họ đã hiểu lời tiên báo đó theo nghĩa đen là 3 ngày + 3 đêm, nhưng thật sự chỉ là đêm thứ sáu + ngày thứ 7 và rạng sáng ngày Chúa nhật, như vậy chúng ta có thể hiểu Chúa đã ở trong nơi chôn cất 3 ngày : Thứ sáu + thứ bảy + Chúa nhật và 3 đêm là: đêm thứ sáu, đêm thứ bảy, đêm Chúa nhật.
18/ Đoạn 24 câu 22 : Cléôpát tiếp tục giải thích về những lời chứng của các bà. Những gì các bà kể lại, chẳng gợi thêm chút gì về niềm tin, hay đáng tin, mà làm cho họ còn bối rối thêm, sửng sờ về những lời chứng ấy( Lc2,4)(Cv2,7.8.9).
19/ Đoạn 24 câu 23+24: Nhắc lại việc các bà không thấy thi hài của Người đâu cả, nhiều người trong nhóm của Phêrô quyết định kiểm chứng lại câu chuyện của các bà, họ đã chứng kiến ngôi mộ trống/ nếu chỉ mỗi chuyện ngôi mộ trống thì chưa đáng tin.
20/ Đoạn 24 câu 25: Niềm tin vào Chúa Yesus phục sinh không phải có được từ việc xem thấy ngôi mộ trống, nhưng là từ việc tin vào sách Thánh và lời Chúa Yesus tiên báo về sứ vụ của Người. Đây là bài học quan trọng mà Chúa Yesus muốn truyền đạt trong thời gian tại thế, lòng tin không phải là một vấn đề có thể nhận thấy. Nếu đã là một con người tội lỗi, luôn hoài nghi thì cũng chẳng thể tìm được lý chứng nào để thuyết phục họ. Để hiểu thì không cần đôi mắt thể lý, nhưng là cần con mắt đức tin. Bao nhiêu người đã chứng kiến các phép lạ Chúa làm, nhưng họ chỉ xem bằng con mắt thường chứ đâu có xem bằng con mắt đức tin, thế nên họ vẫn không tin. Chúa muốn chúng ta thấy và nghe bằng niềm tin, nên Chúa vẫn bảo: Ai có tai thì hãy nghe (Mt 13,9) Lc8,8 /
21/ Chúa Yesus phê bình các môn đệ : Chúa đã phê bình thật chính xác khi các môn đệ đã đọc những đoạn sách Thánh có liên quan đến Đấng Messia cùng lúc họ còn được chứng kiến các việc Chúa làm, thế nhưng vì họ ngờ nghệch, chậm hiểu nên không sẵn sàng để tin tất cả các lời ngôn sứ nói.
22/ Chúa chê là phải, vì sao ? Chúa nói tất cả, là bao gồm cả dân Do Thái và các môn đệ => Họ chỉ chú trọng đến phần Cựu Ước là lời hứa khi Đấng Messia xuất hiện, sẽ mở ra một thời kỳ an bình, thịnh vượng, được giải thoát, mà không cần màng đến phần sách Thánh nói về : «Người tôi trung đau khổ », sẽ phải hy sinh mạng sống để chuộc lấy điều tốt lành cho chúng ta. Sách Isaia từ chương 42-53 đã nói về Người tôi trung này, sẽ phải chịu đau khổ bởi thù địch để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta.
23/ Khi câu trả lời đã được ứng nghiệm, các môn đệ thường hỏi : Người là ai / các ông chẳng thể chối tội bởi Chúa Yesus đã thường xuyên dạy họ rằng : Người phải lên Yerusa-lem để chịu đau khổ, chịu chết và ngày thứ 3 sẽ chỗi dậy Lc9,22-27. Tác giả thư gửi tín hữu Hipri đã cảnh báo những người gia nhập Kitô giáo rằng: Họ sẽ không tránh khỏi bị xét xử vì những gì Chúa Yesus đã nói với họ và đã làm cho họ.
24/ Đoạn 24 câu 26 : Những biến cố: chịu đau khổ và chết, không phải vì điều đó đã được tiền định, nhưng vì Chúa Yesus đã làm theo ý Chúa Cha, cái chết trên thập gía không phải là cái chết không thể tránh, nhưng là cái chết mà Chúa Yesus đã chọn, ngay từ nhỏ khi Chúa Yesus đã ở lại trong đền thờ 3 ngày và cho biết Ngài cón có bổn phận với Cha Ngài (Lc2,49). Nơi vườn cây dầu, Người cũng cầu nguyện và xin được thể hiện theo ý Chúa Cha (Lc22,42).
25/ Đường vinh quang mà Chúa Yesus đạt được, chính là con đường thập giá.
26/ Đoạn 24 câu 28 : Các Sách Thánh đều chứng thực về lời hứa ban ơn cứu độ mà Đức Yesus là nhân vật chính của tin mừng, nhưng điều đáng ngạc nhiên ở chỗ các môn đệ cũng vẫn không nhận ra Đức Yesus, cho dù Người đã giải nghĩa các sách Thánh một cách tỉ mỉ.
27/ Khi về gần đến làng : Chúa Yesus không có ý muốn đánh lừa 2 ông là Người còn muốn đi xa hơn nữa. Ý Chúa ở đây là thay vì giải đáp những thắc mắc của các môn đệ, mà là muốn minh chứng cho họ thấy những điều sách Thánh đã viết về Người.
28/ Đoạn 24 Câu 29 : Hai môn đệ cố thuyết phục Chúa Yesus ở lại, vì họ bị Chúa Yesus lôi cuốn. Đây là thời điểm căng thẳng của sự chờ đợi vì lúc này đã gần hết ngày thứ 3, là ngày mà Ngài đã tiên báo là sẽ chỗi dậy (Lc9,22 / Lc18,33).
29/ Đoạn 24 câu 30 : Lúc này hai môn đệ đang cảm nhận tình bằng hữu ấy tại nhà họ.
30/ Đoạn 24 câu 31 : Mắt họ mở ra, họ cảm nhận được Chúa, họ trông thấy Người thật sự, Người không còn bị giới hạn bởi điều kiện thể lý thuộc về xác loài người mà Người đã mặc lấy trong cuộc nhập thể.
31/ Đoạn 24 câu 32 : Giờ đây họ mới nhớ lại cảm giác kỳ lạ mà họ đã cảm nghiệm những gì Chúa Yesus đã nói với họ trong suốt cuộc hành trình, tâm hồn chai cứng của họ đã bị tan chảy, việc bẻ bánh đã mở mắt các môn đệ, cho họ thấy được bản chất đích thực của Chúa Yesus, Yerusa-lem đã mù lòa nên không thấy được sự bình an mà Cháu Yesus ban tặng. Họ không nhận ra giờ mà Thiên Chúa đến viếng thăm họ.
32/ Đoạn 24 câu 33 : Câu này cho thấy sự cấp bách và tình trạng quá phấn chấn của 2 môn đệ. Lúc trước họ lấy lý do ngày sắp tàn để mời người khách ở lại, nay thì họ lại muốn đi ngay lên Yerusa-lem vào ban đêm ở quãng đường xa 11 km.
33/ Đoạn 24 câu 34 : Giờ đây mọi người đang tụ họp và cùng hiện diện, họ có sẵn những tin vui để nói cho hai môn đệ nghe. Từ những chứng cứ rõ ràng nên họ có thể quả quyết : Chúa đã trỗi dậy rồi.
34/ Đoạn 24 câu 35 : Giờ đây, hai môn đệ vừa trở về từ Em-maus đã có cơ hội để khẳng định sự phục sinh, họ kể sách Thánh đã tỏ lộ thế nào, mắt họ đã mở ra sao, bầu khí sôi nổi đã nhanh chóng lan tỏa khi họ chia sẻ với nhau về tin mừng Chúa Yesus đã phục sinh từ cõi chết.
TÓM Ý
1/ Vì kẹt ngày Lễ nghỉ (Sabat), hai môn đệ không thể đợi chờ thêm vì đã quá thất vọng, buồn chán do việc Thầy mình đã chết/ nên hai ông vội vã trở về quê quán ,bởi sự việc xảy ra đã 3 ngày rồi nhưng cũng chẳng có tin tức gì khả quan.
2/ Bởi lòng họ đang cay đắng thất vọng, nên trong suốt quãng đường đi, cho dù có Thầy mình đang đi bên cạnh, nhưng hai ông vẫn coi Chúa là người bạn đồng hành xa lạ.
3/ Qua câu chuyện này, chúng ta có thể đi đến kết luận: Hai ông nhận ra Chúa không phải vì đồng hành với Chúa, cũng không phải vì được Chúa cắt nghĩa toàn bộ Kinh Thánh nói về Đấng Messia/ nhưng là nhờ vào một công việc bác ái yêu thương là mời Chúa ở trọ lại qua đêm.
4/ Thánh Phaolo dạy rằng: kẻ trở nên công chính không phải do việc nghe lề luật, nhưng là tuân giữ lề luật, quyết tâm đem ra thực hành, lúc đó lề luật mới thật sự đem lại lợi ích cho chúng ta/ do việc chúng ta thực hành đức bác ái/
5/ Ngày phán xét Chúa Yesus nói với mọi người rằng: Hãy kiên trì thực hành đức bác ái/ và chỉ có những ai sống bác ái thì mới đáng được hưởng phúc cùng Chúa.
6/ Chúa phục sinh đến với 2 môn đệ vào lúc các ông chán nản thất vọng nhất, chứng tỏ rằng chỉ có chúng ta mới bỏ Chúa, chứ Thiên Chúa không bao giờ bỏ chúng ta.
7/ Chúa phục sinh thể hiện sự nhẫn nại khi mà hai môn đệ trả lời lạnh nhạt và có ý khinh dể Chúa (…chắc chỉ có ông …) Chúa vẫn giả lơ như không biết gì để lắng nghe hai ông giải bày nỗi niềm, để rồi Chúa tìm cách giải thích, dẫn dắt hai ông trở về đúng với niềm tin mà các ông cần hướng tới/
8/ Đau khổ đóng vai trò mấu chốt trong chương trình cứu độ/ người đời thấy đau khổ thì sợ, muốn xa lánh/ nhưng đối với Chúa Yesus thì đau khổ chính là nấc thang đưa đến sự vinh quang/ là chìa khóa vàng để mở cửa Thiên Đàng cho mọi người được vào/ Thánh giá đối với thế gian là nỗi ô nhục, nhưng đối với Chúa lại là niềm vinh quang phục sinh.
9/ Hai môn đệ nhận ra Chúa do lòng bác ái ,mời Chúa ở lại trọ/ họ nhận ra Chúa do động tác bẻ bánh mà Chúa đã làm vào hôm tiệc ly.
10/ Rút kinh nghiệm từ hai môn đệ này: khi chúng ta cảm thấy Chúa bỏ rơi mình thì cũng chính là lúc Chúa đang ở bên cạnh/ khi chúng ta tưởng rằng Chúa đang ở bên cạnh thì Chúa lại biến mất. chính lúc Ngài biến đi thì hai ông lại cảm nghiệm sâu xa hơn về sự hiện diện của Chúa bởi lòng các ông bừng cháy niềm vui và hân hoan reo mừng/
11/ Muốn gặp được Chúa phục sinh, chúng ta cần tập đến với tha nhân, tập đồng hành, tập gợi ý, tập chịu đựng để lắng nghe, chia sẽ và dẫn dắt họ.
12/ Tại sao hôm nay vẫn còn có quá nhiều người quay về Emmaus, bởi vì mọi người thường hiểu sai về đường lối cứu độ của Chúa, họ chỉ tin Chúa nữa vời, họ tin Chúa khi đời họ thịnh vượng, như ý/ nhưng khi gặp điều trái ý thất bại, đau khổ thì họ ngã lòng trông cậy, buồn phiền, thất vọng, mắt họ cay mờ nên chẳng còn thấy Chúa đâu nữa, cho dù Chúa vẫn ở bên cạnh họ/
13/ Những dấu hiệu sa sút niềm tin của hai môn đệ: Yerusalem là thủ đô của văn minh và của tôn giáo nữa, rời bỏ Yerusalem là dấu hiệu của sự chán nản, bất cần/ trước kia hai ông bỏ mọi sự để đi theo Chúa, giờ này các ông thất thểu trở về như kẻ thua cuộc trắng tay, vỡ mộng/
14/ Giữa lúc buồn tủi nhất thì Chúa xuất hiện như luồng ánh sáng chiếu soi vào đêm tối tăm, niềm vui xóa tan mối sầu, ngọn lửa hồng sưởi ấm hai trái tim lạnh giá/ nơi nào Chúa xuất hiện, nơi đó ngập tràn hạnh phúc, hy vọng.
15/ Chúa dùng Lời Chúa để khơi dậy niềm tin đã lụi tàn trong hai ông/ chỉ khi có đức tin, các ông mới hiểu hết mọi biến cố trong đời/ Đức tin như đóm lửa trong đêm đen thất vọng/
16/ Lời Chúa mang đến sự hiểu biết và niềm tin, trước kia các ông chỉ đọc thuộc lòng kinh thánh mà không hiểu gì/ nay nhờ sự dẫn dắt của Chúa, các ông mới biết cách đọc và hiểu Kinh Thánh, phải đọc với tâm tình tôn kính mến yêu, vì Lời cũng là chính Thiên Chúa.
17/ Chúa Phục sinh vẫn luôn hiện diện với chúng ta qua các Thánh Lể, nơi bàn tiệc Thánh thể, qua các bài giảng, qua các giáo huấn của Giáo hội, qua các kinh nguyện mà chúng ta vẫn dâng lên Chúa hằng ngày/
18/ Nhìn hai môn đệ đang thất thểu trở về, chúng ta cũng biết rằng mình luôn luôn cần có Chúa, hãy bắt chước hai ông mời Chúa ở lại, hãy siêng năng gặp Chúa nơi bàn tiệc Thánh thể / nếu mất Chúa chúng ta đi tìm ngay. Không có Chúa, chúng ta sẽ ngã quỵ
19/ Muốn sống như Chúa phục sinh, chúng ta cần phải đến với tha nhân, tập lắng nghe, chia sẽ, an ủi, dẫn dắt họ, nhất là hãy nói với mọi người về Chúa phục sinh.
20/ Nhờ có Thánh thể Chúa, chúng ta mới luôn khỏe mạnh, an vui, hạnh phúc, thân xác mạnh khỏe, linh hồn hạnh phúc, chúng ta luôn phải trở lại tìm Chúa qua các anh em tha nhân/ khi con mắt đức tin sáng, ta sẽ thấy Chúa khắp mọi nơi, không còn sợ mất Chúa nữa.
21/ Khi đã có Chúa rồi thì dù đường có xa, có gian khổ, có mệt nhọc, chúng ta sẽ luôn cảm thấy vui mừng hạnh phúc/ Hạnh phúc nhất là chúng ta luôn được đồng hành với Chúa.
22/ Hãy nhìn các biến cố trong đời bằng con mắt đức tin, nhờ đức tin chúng ta thấy những khổ đau trái ý mang một ý nghĩa rất tốt đẹp/ Hãy biết lắng nghe, biết suy gẫm lời Chúa, để từ đó chúng ta luôn đồng hành, chuyện trò với Chúa trên con đường cuộc đời/ và Lời Chúa luôn là lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. R
GiuseLuca / KT Emmaus