Website:https://ditimchanly.org/videosbaigiangWWW.YOUTUBE.COM/DinhNghiTruong / CHÚNG CON KÍNH THỜ CUỘC TỬ NẠN CỦA CHÚA GIESU KYTO  / XIN HÃY CANH TÂN GIÁO HỘI / THÁNH HÓA THẾ GIỚI / CHO MỌI DÂN TỘC ĐỪNG ĐỐI XỬ ÁC ĐỘC VỚI NHAU / XIN CHÚA THAY ĐỔI LÒNG CON NGƯỜI ,ĐỂ HỌ SẴN SÀNG TRAO CHO NHAU CƠ HỘI SỐNG TỐT / XIN CHÚA HÃY CỨU THẾ GIỚI CHÚNG CON ĐANG SỐNG AMEN . (GIUSE LUCA)**R

Bài 2, 3: Thiên Chúa Mặc Khải - Thiên Chúa Tạo Dựng

Bài 2 :THIÊN CHÚA MẶC KHẢI

Bài 2 :THIÊN CHÚA MẶC KHẢI

LỜI CHÚA :

“Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này,Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1-2)

BÀI HỌC :

Thiên Chúa tỏ mình qua nhiều giai đoạn trong lịch sử dân Do Thái, nhưng cuối cùng, Thiên Chúa tỏ bày cho nhân loại qua chính Con của Ngài khi sai Chúa Con xuống làm người.

Mặc khải là việc Thiên Chúa tự tỏ mình ra cho chúng ta biết Ngài là ai, và Ngài muốn gì nơi chúng ta.Mặc khải được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.

I . THÁNH KINH LÀ GÌ ?

Thánh Kinh là những mặc khải của Thiên Chúa (Lời Chúa) được con người ghi chép lại thành sách dưới sự linh hứng (soi sáng) của Chúa Thánh Thần (2Pr 1,21 ; 2Tm 3,16).

Bộ sách Thánh Kinh (73 cuốn) có 2 phần : Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là những Lời Thiên Chúa bày tỏ cho tổ phụ người Do Thái trước khi Đức Giêsu Kitô chào đời dưới hình thức Giao Ước, gồm 46 cuốn. Tân Ước (Giao Ước Mới) là những Lời Thiên Chúa nói với loài người từ khi Đức Giêsu Kitô ra đời, gồm 27 cuốn. Ngày nay, mỗi cuốn Sách thánh được đánh dấu số chương và số câu để dễ tra cứu.

II. THÁNH TRUYỀN LÀ GÌ ?

Thánh Truyền chứa đựng lời Thiên Chúa mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các tông đồ và lưu truyền toàn vẹn cho những người kế vị các ngài,để nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng,họ trung thành gìn giữ và phổ biến qua lời rao giảng.

Trước khi có Thánh Kinh Tân Ước đã có Thánh Truyền. Thánh Truyền thời Hội Thánh ban đầu là toàn bộ đời sống Hội Thánh : Lời rao giảng của các tông đồ,cách cầu nguyện, phượng tự và các tổ chức sinh hoạt của các tín hữu. Dần dần những lời giảng dậy được ghi thành văn dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, các sách Thánh kinh chỉ được coi là bản văn linh hứng khi được Hội Thánh nhìn nhận. Các chân lý được mặc khải trong Thánh Kinh, nhưng để hiểu được các chân lý ấy thì phải dựa vào Thánh Truyền (Truyền thống của Hội Thánh).

III. THIÊN CHÚA MẶC KHẢI QUA TỪNG GIAI ĐOẠN

1) Giao ước với Abraham :

Vào khoảng thế kỷ 19 (–1850) trước Đức Giêsu Kitô (AC), Thiên Chúa hiện ra với Abraham, tổ tiên của người Do Thái, bày tỏ cho ông biết Ngài là Đấng Tối Cao. Nếu Abraham chọn tôn thờ Thiên Chúa thì Chúa sẽ ban cho dòng dõi ông trường tồn trong đất hứa; và đó là Giao Ước đầu tiên.

St 12,1-2a.4.7 (sách Sáng Thế)

12,1 Đức Chúa phán với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi..."… 4Ông Áp-ram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông. Ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời Kha-ran. … 7Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ram và phán: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi." Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa, Đấng đã hiện ra với ông.”

2) Giao ước với Mô-sê :

Con cháu của Abraham di cư xuống đất Ai Cập (khoảng năm 1700 trước Đức Kitô) để tránh nạn đói, và họ đã sinh sôi nảy nở thành một gia tộc rồi một dân tộc. Dân tộc này bị nô lệ đày đoạ ở Ai Cập và nhiều người trong số họ cũng chẳng còn biết Thiên Chúa là ai; nhưng Thiên Chúa lại cứu họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vào khoảng thế kỷ 13 trước khi Chúa Giêsu chào đời, Thiên Chúa đã hiện ra với Môsê (-1250), mặc khải cho ông biết Ngài là Thiên Chúa (Giavê) của tổ phụ người Do Thái và Ngài muốn giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ để vào Đất Hứa. Qua Môsê, Thiên Chúa đã giao ước với dân Do Thái: nếu họ tôn thờ Thiên Chúa và tuân giữ 10 giới răn (Giao ước Sinai), thì Thiên Chúa sẽ cho dòng dõi họ trường tồn trong Đất Hứa.

Xh 3,7-8 (sách Xuất hành)

3,7Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. 8Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Ca-na-an.”

Xh 20,1.3-4.7-8.12-17 : Giao Ước Si-nai

20,1Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây: …3Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. 4Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. ….7Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì ĐỨC CHÚA không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. 8Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. …12Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. 13Ngươi không được giết người. 14Ngươi không được ngoại tình. 15Ngươi không được trộm cắp. 16Ngươi không được làm chứng gian hại người. 17Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta."

3) Giao ước với Đavit :

Dân Do Thái đã vào đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ của họ là đất Palestine. Trong các ông vua của họ, nổi bật nhất là vua Đavit ở thế kỷ 11 trước Chúa Giêsu (-1010). Thiên Chúa đã hứa ban cho dân một Đấng Kitô, đấng cứu tinh của dân tộc, qua hoàng tộc Đavit. Song con cháu của Đavit lên làm vua cũng chẳng thực hiện được điều mà dân mong ước, vì thế cho đến ngày hôm nay, họ vẫn cứ chờ đợi Đấng Kitô đến; còn những ai tin vào Đức Giêsu thì gọi Ngài là Giêsu Kitô.

St 49,10 (sách Sáng Thế)

 “Chi tộc Giuđa sẽ chẳng mất ngôi vua, dòng dõi ấy sẽ không mất quyền trị nước, cho tới khi vị Thiên Sai đến, ấy là Đấng muôn dân trông đợi”

4) Giao ước qua các ngôn sứ :

Vào khoảng thế kỷ VIII trước Chúa Giêsu (–721), dân Do Thái bị lưu đày, mất nước, mất vua, mất đền thờ. Thiên Chúa lại nói qua các ngôn sứ rằng họ đã lỗi Giao Ước, cần phải thanh tẩy Giao Ước, đi sâu vào nội tâm chứ đừng sống vị hình thức để đón chờ Đấng Kitô sẽ đến. Các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa chọn để truyền đạt ý định của Thiên Chúa cho dân Do Thái biết cách thay đổi đời sống thì sẽ được cứu độ. Các ngôn sứ, hay còn được gọi là tiên tri, rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, hành động và đời sống.

Is 7,14b (sách ngôn sứ I-sai-a)

 “Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, đặt tên là Em-ma-nu-en”.

Gr 19,10-11 (sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a)

19,10Ngươi sẽ đập vỡ cái bình trước mặt những người cùng đi với ngươi, 11rồi nói với chúng: ĐỨC CHÚA các đạo binh phán thế này: Cũng vậy, Ta sẽ đập tan dân này và thành này như người ta đập vỡ cái vò của thợ gốm, mà không thể hàn gắn lại được nữa.

Am 5,23-24 (sách ngôn sứ A-mốt)

5, 23Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của ngươi, Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. 24Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào,  cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn.”

5) Giao ước trong Đức Giêsu Kitô :

Vào năm –538 trước Chúa Giêsu, dân Do Thái hồi hương, nhưng rồi họ lại bị đế quốc Hy Lạp thống trị từ năm –332 đến –142. Thời gian độc lập chẳng được bao lâu thì lại bị đế quốc Rôma đô hộ từ năm –63 trước Chúa Giêsu; và đến năm 70 sau Chúa Giêsu (PC) thì người Do Thái bị lưu đày khắp thế giới, mãi đến năm 1949 mới trở về tái lập quốc gia Israel.

Cuối cùng, Thiên Chúa muốn mặc khải qua chính Con của Ngài. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, rao giảng Tin Mừng cứu độ trong bối cảnh đất nước Do Thái (xứ Palestine) bị đô hộ bởi Rôma. Vào thế kỷ VI sau Chúa Giêsu, một tu sĩ đã quy định niên hiệu Kitô giáo, lấy năm Đức Giêsu sinh ra làm năm thứ nhất, (Lc 3,1) song cách tính của ông bị sai lệch mất 6 năm, dù vậy niên lịch quốc tế hiện thời vẫn theo cách tính niên biểu ấy và hiểu năm thứ nhất là năm Đức Giêsu chào đời.

CẦU NGUYỆN :

“Trời cao xin đổ sương xuống, mây hãy mưa Đấng Cứu Độ ! Giống như dân Do Thái ngày xưa trông đợi đấng Kitô mà Chúa hứa ban qua hoàng tộc Đavit, con cũng đang tìm kiếm Chúa. Xin Chúa hãy tỏ mình ra cho con được nhận biết Chúa là cùng đích của cả nhân loại.”

Bài hát : Lắng nghe Lời Chúa, trang  193

TÓM LƯỢC :

1* Mặc khải là gì ?

-Mặc Khải là việc Thiên Chúa tự tỏ mình ra cho chúng ta biết Ngài là ai, và Ngài muốn gì.

2* Mặc khải được lưu giữ ở đâu ?

-Mặc khải được lưu giữ ở trong sách Thánh Kinh và trong truyền thống của Hội Thánh gọi là Thánh Truyền.

3* Thánh Kinh là gì ?

- Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa được con người ghi chép lại thành sách dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.

4* Tin Mừng cứu độ của Chúa đã được thể hiện như thế nào ?

-Tin Mừng cứu độ được chuẩn bị trong Giao Ước cũ qua dân tộc Do Thái gần 2000 năm, để rồi trong Đức Giêsu Kitô, Tin Mừng ấy được loan báo cho toàn thể nhân loại đến chúng ta ngày hôm nay, gọi là Giao Ước mới.

QUYẾT TÂM :

Tôi tập lắng nghe Lời Chúa nói qua các tạo vật của Người, đặc biệt là qua những người có trách nhiệm hướng dẫn tôi.

Bài 3 :THIÊN CHÚA TẠO DỰNG

LỜI CHÚA :

“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27b).

BÀI HỌC :

Giữa cảnh lưu đày (khoảng thế kỷ VII trước Đức Kitô), người Do Thái mới suy nghĩ ngược dòng lịch sử, và tin nhận Thiên Chúa mà họ tôn thờ cũng chính là Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người; và chính vì con người đã lạm dụng tự do nên đã gây ra sự dữ.

I – THIÊN CHÚA TẠO DỰNG TRỜI ĐẤT

Những chương đầu của sách Sáng Thế không bao giờ nhằm dạy những bài học khoa học, song tác giả chỉ mượn những kiến thức bình dân và phổ thông thời bấy giờ để dạy một bài học tôn giáo. Như vậy, tác giả không muốn nói thế giới , vũ trụ và con người được tạo dựng như thế nào, nhưng điều tác giả quan tâm là thế giới và con người từ đâu đến, và sẽ đi về đâu?

St 1,1-8.27-28-2,3

1,1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. 3Thiên Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. 4Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. 5Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất. 6Thiên Chúa phán: "Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước." 7Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. 8Thiên Chúa gọi vòm đó là "trời". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai. … 27Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. 28Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất."

2,1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. 2Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.

Giáo huấn Thánh Kinh không bao giờ sai lạc, và có thể tóm tắt các chân lý của trình thuật tạo dựng như sau :

1*  Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi !

Tất cả thần Mặt Trăng, Mặt Trời, Sông, Núi... mà dân ngoại thờ kính chẳng phải là thần  linh vì tất cả chỉ là thụ tạo của Thiên Chúa.

2*  Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ từ hư vô.

Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Người tạo dựng không phải từ những chất liệu có sẵn, song từ Lời quyền năng của Người. Thiên Chúa phán một Lời thì mọi sự liền có, từ không sang có.

3*  Từ nguyên thủy, mọi tạo vật đều tốt đẹp.

Vì phát xuất từ lòng nhân từ của Thiên Chúa nên mọi vật đều tốt đẹp, theo kiểu nói: “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Thánh Kinh muốn khẳng định Thiên Chúa không tạo ra sự  xấu hay sự dữ.

4*  Con người vốn cao quý hơn mọi loài.

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh của Thiên Chúa, nghĩa là con người có một giá trị cao cả và vượt xa con vật.

5*  Thiên Chúa cho con người làm chủ vũ trụ.

Tất cả thế giới này được tạo dựng là để cho con người, được giao phó cho con người trông coi và định đoạt.

6*  Trước mặt Thiên Chúa, con người vốn bình đẳng.

Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ, bình đẳng và bổ túc cho nhau (chống lại quan niệm trọng nam khinh nữ thời bấy giờ).

7*  Thiên Chúa muốn con người phải nghỉ một ngày trong tuần.

Sắp xếp công trình tạo dựng trong một tuần lễ là tác giả Thánh Kinh muốn cổ võ tập quán thánh hóa ngày lễ nghỉ (Sabbat).

II – THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI

Thánh Kinh không nói con người được tạo dựng như thế nào, song chỉ có ý nói con người là bởi Thiên Chúa. Kiểu nói Thiên Chúa lấy đất nắn và thổi hơi là một kiểu nói “nhân hình hóa” rất quen thuộc trong Thánh Kinh. Thời Cựu Ước, người ta vẫn biết Thiên Chúa không phải là người, nhưng họ vẫn dùng kiểu nói ‘như nhân’ đó để chỉ rằng Thiên Chúa không phải là một ý niệm trừu tượng, song là một hữu thể, một ngôi vị, một Đấng luôn luôn sống và hành động. Thánh Kinh diễn tả Thiên Chúa với dấu vết nam tính, phụ tính và cả nữ tính, mẫu tính; tuy nhiên Thiên Chúa không phải là nam, cũng chẳng phải là nữ vì Ngài chẳng phải là người (trừ Con Thiên Chúa sau này làm người). Thiên Chúa ở bên kia phái tính, các từ ‘cha’, ‘chồng’, ‘mẹ’... chỉ được hiểu như một từ ngữ biểu trưng.

St 2,4b-5.7-9.18-24

Câu: 2,4...Ngày ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa làm ra đất và trời,

 2,5 chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai.

 2,7 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.

 2,8 Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.

 2,9 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. …

 2,18 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.

 2,19 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế.

 2,20 Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.

 2,21 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào.

 2,22 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.

 2,23 Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra."

 2,24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.

Đây là một trình thuật tạo dựng khá muộn, có vẻ trái ngược với trình thuật ban đầu, song tác giả muốn nhấn mạnh một số điểm:

1*  Con người là hình ảnh của Thiên Chúa bởi vì:

 Con người mang phẩm giá đặc biệt, vượt trên vạn vật (Tv 8,4-7) nên con người phải được tạo dựng trước.

 Con người có khả năng đặc biệt: nhận biết và yêu mến Thiên Chúa và tha nhân (St 2,23).

 Con người là đỉnh cao của tạo thành và Thiên Chúa tạo dựng mọi sự là cho con người.

2*  Con người là một toàn thể gồm xác và hồn:

 Nơi con người có hai yếu tố vật chất và tinh thần là bùn đất và sinh khí (hơi thở của Thiên Chúa).

 Thể xác là một tổng hợp vật chất nhưng lại được linh động hóa bởi một nguyên lý là hồn thiêng.

 Hồn thiêng do Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp, do Thiên Chúa ban tặng chứ không do cha mẹ tạo nên. Vợ chồng chỉ làm theo những định luật đã được Thiên Chúa an bài khi kết hợp với nhau, và sự sống có thể đến hoặc không đến. Vợ chồng chỉ đón nhận sự sống, chứ không trực tiếp tạo ra sự sống mà chỉ là cộng tác với Chúa. Thế nên, cha mẹ phải bảo vệ và phát triển sự sống, chứ không có quyền trên sự sống. Linh hồn vốn bất tử vì do Thiên Chúa tạo dựng lúc con người thành thai, nhưng con người chỉ có một hồn và một xác (khác với thuyết luân hồi). Chết là hồn tạm lìa xác đợi ngày thân xác Phục Sinh để hưởng hạnh phúc trọn vẹn bên Chúa nếu xứng đáng.

 3*  Con người có nam có nữ, bình đẳng và bổ túc cho nhau.

 Ngay từ khởi thủy của tạo dựng đã có nam có nữ, khác biệt nhưng bình đẳng (St 1,27), cả hai đều có nét độc đáo riêng và bổ túc cho nhau.

 Con người được tạo dựng là để sống cho nhau (St 2,18). Adam ở một mình thì không tốt song ông không tìm được người trợ tá nào nơi loài vật hay cây cối mà chỉ có nơi Eva, nghĩa là từ xương thịt ông, và đó là tiếng reo khám phá của tình yêu và thông hiệp.

4* Con người được cộng tác vào công trình của Thiên Chúa.

Thiên Chúa là căn nguyên vạn vật và con người có một ưu vị trong vũ trụ, bởi đó Thiên Chúa tạo dựng vật chất và những định luật thiên nhiên để rồi con người có thể phát triển dựa vào những định luật đó. Nhờ Thiên Chúa là nguyên lý tối cao mà con người có quyền đồng sáng tạo.

Tự bản chất con người chỉ là thụ tạo, được hưởng những đặc ân của Thiên Chúa nhưng con người vẫn khác xa và cách biệt ngàn trùng với Thiên Chúa Tạo Hoá. Chỉ trong Chúa Giêsu Kitô, con người mới trở thành con Chúa, mới được tham dự và chia sẻ sự sống đời đời.

Dù sao đây cũng là công trình tạo dựng đầu tiên và dĩ nhiên là chưa hoàn hảo và trọn vẹn vì đã có tội lỗi chen chân vào. Thế nên công trình sáng tạo hoàn hảo chỉ được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu đọâ.

CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con đã được sinh ra làm người, và được Chúa yêu thương cứu độ. Xin cho con luôn ý thức điều đó, như lời sách Thánh Vịnh: “Ngắm trời xanh, tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?”  (Tv 8,4).

Bài hát : Con chỉ là tạo vật, trang 191

Học kinh : Lạy Cha, trang 12

TÓM LƯỢC :

1.   Khi tường thuật về việc tạo dựng, tác giả Thánh Kinh muốn nói gì ?

* Khi tường thuật về tạo dựng, tác giả Thánh Kinh không có ý trình bày thế giới được tạo dựng như thế nào, song chỉ muốn dạy những chân lý tôn giáo.

2.   Những chân lý tôn giáo ấy là gì ?

* Chẳng hạn chỉ có một Thiên Chúa tối cao, toàn năng và tốt lành,sáng tạo nên mọi vật mọi loài, và con người vốn cao quý, làm chủ mọi loài vì mang hình ảnh của Thiên Chúa.

3.   Con người theo Thánh Kinh là gì ?

4.   Con người là một toàn thể gồm xác và hồn, tự do, bình đẳng và bổ túc cho nhau.

QUYẾT TÂM

Ý thức về phẩm giá cao quý của mình, tôi tập làm chủ các bản năng của mình.


Trở lại      In      Số lần xem: 3008
Tin tức liên quan
  • Bài 24: Cầu Nguyện
  • Bài 23: Yêu Người Như Mình
  • Bài 22: Mến Chúa Trên Hết
  • Bài 21: Bí Tích Hôn Phối
  • Bài 20: Bí Tích Truyền Chức
  • Bài 19: Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân
  • Bài 18: Bí Tích Hòa Giải
  • Bài 17: Lương Tâm & Tội Lỗi
  • Bài 16: Thánh Lễ Tạ Ơn
  • Bài 15: Bí Tích Thánh Thể
Video
BG CN 25 TN B-TGM GIUSE NGUYEN NANG
Bài Giảng CN LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG A
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  14
 Hôm nay:  1743
 Hôm qua:  1814
 Tuần trước:  27315
 Tháng trước:  97734
 Tất cả:  11352047
LIKE FACEBOOK
Thông tin liên hệ
- Mọiýkiếnxingửivề:GiuseLucaTrươngĐìnhNghi
- Giáodânbấtxứng /Quảnlýwebsite.
- Email: ditimhanhphuc1974@gmail.com
- Fb:https://www.facebook.com/ditimchanly.org 
-Videos:www.youtube.com/tìmtênDinhNghiTruong
 clickvàologokinhthánh .

Chia sẻ cho bạn bè :
top