Website:https://ditimchanly.org/videosbaigiangWWW.YOUTUBE.COM/DinhNghiTruong / CHÚNG CON KÍNH THỜ CUỘC TỬ NẠN CỦA CHÚA GIESU KYTO  / XIN HÃY CANH TÂN GIÁO HỘI / THÁNH HÓA THẾ GIỚI / CHO MỌI DÂN TỘC ĐỪNG ĐỐI XỬ ÁC ĐỘC VỚI NHAU / XIN CHÚA THAY ĐỔI LÒNG CON NGƯỜI ,ĐỂ HỌ SẴN SÀNG TRAO CHO NHAU CƠ HỘI SỐNG TỐT / XIN CHÚA HÃY CỨU THẾ GIỚI CHÚNG CON ĐANG SỐNG AMEN . (GIUSE LUCA)**R

Chia sẻ Lời Chúa Tuần 2 Phục Sinh - C 2016 / Giuse Luca

Chia sẻ Lời Chúa hằng ngày

Thứ 2 -> Thứ 7  /  Tuần 2 Phục Sinh (04/04 -> 09/04/2016)

Thứ hai, 04/04/2016

Đề tài: Suy niệm về Lễ Truyền tin  cho Đức Mẹ .

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.(Lc 1,26-38)

26 Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30 Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Này đây bà sẽ thụ  thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” 34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?”

35 Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà ; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37 vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” 38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

SUY NIỆM:

1. Thế giới luôn sống trong buồn thảm, nhưng khi Mẹ Maria mang Chúa vào đời thì thế giới bắt đầu chuyển mình sang một giai đoạn mới. Chính lời “Xin Vâng” đầy phó thác của Mẹ đã biến một thế giới đầy bế tắc do sự bất trung của nguyên tổ, trở thành một đại lễ vui mừng của sự gặp gỡ, chia sẻ, hân hoan và đầy lòng tin tưởng cậy trông.

2. Từ hôm nay trên tuyến đường mà nhân loại đang đi tràn ngập niềm vui và có ý nghĩa. Vì chúng ta đã nhìn thấy nơi Mẹ một con đường lý tưởng, một mẫu gương cần được noi theo để chúng ta có thể đạt tới hạnh phúc viên mãn.

3. Vào năm 1830, khi hiện ra với Thánh Nữ Catarina Labourê  ở "phố đò" Balê, Đức Mẹ cho biết Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội qua lời cầu nguyện: “Lạy Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ hằng chạy đến kêu xin Mẹ  / Rồi năm 1858 khi hiện ra ở Lộ Đức, Đức Mẹ nói với Thánh nữ Berna-đét: “Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội”. Như vậy, với 2 lần hiện ra này, Đức Mẹ đã dạy cho chúng ta biết Mẹ là Đấng vô nhiễm nguyên tội.

4. Đặt biệt với lần hiện ra ở Lộ Đức, được coi như một sự xác nhận tín điều mà Đức Giáo Hoàng Piô IX đã tuyên bố ngày 08/12/1854 về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội là đúng Thánh Ý Chúa.

5. Trước hết chúng ta tìm hiểu tội tổ tông là tội như thế nào? Theo Kinh Thánh, Tổ tông loài người là ông Adam và bà Eva được Thiên Chúa ban cho mọi ơn Phúc, được chia sẻ sự sống và được hưởng hạnh phúc bên Chúa; nhưng ông bà đã nghe lời ma quỷ đội lốt hình con rắn cám dỗ phạm tội trái lệnh Chúa, ăn trái cây mà Thiên Chúa đã cấm.

6. Tội mà ông bà đã phạm không phải là tội mê ăn nhưng là tội bất tuân lệnh Chúa,  là tội kiêu ngạo vì đã không chấp nhận thân phận thụ tạo của mình, muốn được nên giống Thiên Chúa.

7. Tội nguyên tổ mà ông bà đã phạm, chẳng những gây thiệt hại cho chính ông bà mà còn lưu truyền lại cho con cháu đến muôn đời. Nghĩa là con cháu loài người đều mắc phải tội Tổ Tông đó và phải lãnh hậu quả do tội này gây ra, trong đó có hình phạt nặng nhất là phải chết!

8. Trong con cái loài người, chỉ một mình Đức Mẹ được đặc ân không mắc tội này, đó là đặc ân “Vô nhiễm nguyên tội”. Ơn vô nhiễm này không phải là do Đức Mẹ được cha mẹ sinh ra một cách khác biệt với mọi người về mặt thể lý.Bởi vậy, vấn đề này không có nghĩa là việc một con người sinh ra, kết quả của mối tình giữa hai vợ chồng, lại có mang một cái gì ô uế. Không phải thế! Vì một con người khi chào đời, đó là một biến cố thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa, hợp với Thánh ý của Thiên Chúa.

9. Giáo thuyết về vô nhiễm nguyên tội của Đức Mẹ hoàn toàn không có chút liên lạc gì với những điều hiểu lầm trên đây,

10. Như vậy, với danh xưng “Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Đức Mẹ, Hội Thánh muốn quả quyết rằng: Đức Maria, Trinh Nữ rất Thánh, là mẹ Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa ban cho ơn Thánh sủng này ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc đời Đức Mẹ. Căn cứ vào công nghiệp của Chúa Giêsu con Mẹ, nghĩa là Thiên Chúa đã áp dụng công nghiệp cứu chuộc do Chúa Giêsu con Mẹ thực hiện.

11. Do đó Mẹ không phải ở trong tình trạng gọi là tội nguyên tổ, vì tội nguyên tổ không là gì khác ngoài việc mất ơn Thánh trong con người mình, là một hậu quả gây nên bởi tội do con người đầu tiên đã phạm tội trong buổi đầu tiên của lịch sử nhân loại.

12. Vậy ơn vô nhiễm nguyên tội của Đức Mẹ chỉ có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc đời ,  thì Mẹ đã có đời sống ơn Thánh đầy đủ , nguyên tuyền trong tâm hồn Mẹ!

13. Đây là đặc ơn Thiên Chúa ban cho Mẹ không phải vì mẹ có chút công trạng gì, nhưng hoàn toàn là do lòng ưu ái của Thiên Chúa.   Để từ sự tràn đầy ơn Thánh ở buổi đầu tiên đó, Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.

14. Như vậy, Mẹ  Maria đã được cứu chuộc cách đặc biệt. Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta bằng cách giải thoát chúng ta khỏi tội nguyên tổ (thoát án sự chết). Nhưng Ngài cứu chuộc Mẹ mình một cách đặc biệt, bằng cách giữ gìn Mẹ khỏi phải vướng mắc tội đó!

15. Đây là nội dung giáo huấn đã được Đức Piô IX long trọng truyên bố vào ngày 8/12/1854 thành một    " tín điều "  cho mọi người công giáo chúng ta.

16. Chúng ta thấy Yoan Tiền Hô cũng được phúc tẩy sạch mọi tì vết của tội nguyên tổ khi Ngài còn ở trong lòng Mẹ mình, khi ông được Chúa Giêsu đến viếng thăm.

17. Trường hợp của Yoan Tiền Hô không phải là vô nhiễm nguyên tội,   bởi vì những tháng đầu trong bụng mẹ, tức là những tháng trước khi Chúa Yeus viếng thăm, Thánh nhân cũng đã mang những vết tích của tội do ông bà nguyên tổ để lại.

18. Còn chúng ta, khi chúng ta chịu phép rửa tội, chúng ta đã được tẩy sạch mọi vết tích của tội nguyên tổ. Tuy nhiên hậu quả của tội ấy vẫn còn ảnh hưởng trên đời sống của chúng ta về lâu về dài  ***

19. Một điều quan trọng nữa đó là lý do tại sao Đức Mẹ được đặc ân này: Thưa, bởi vì Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đây là đặc ân cao quý nhất và duy nhất; đồng thời cũng là lý do và là nguồn gốc của mọi ơn khác ở nơi Đức Mẹ. Mẹ là Mẹ của ngôi Lời nhập thể, tức là Mẹ Đấng Cứu Thế, là Ngôi hai Thiên Chúa; nếu Đức Mẹ đã từng sống trong tội lỗi, thì con người do Mẹ sinh ra này cũng phải trải qua tình trạng tội lỗi, điều này không thể nào xảy ra được với Chúa Giêsu, nên Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ không có giây phút nào vứơng mắc tội lỗi, cho dù tội mọn đến đâu đi nữa, nghĩa là Thiên Chúa đã giữ gìn Mẹ không mắc tội tổ tông ngay từ khi Mẹ bắt đầu được tượng thai.

20. Tín điều này rất quan trọng trong đời sống chúng ta: Thứ nhất, nhờ đặc ơn vô nhiễm mà chúng ta có thể học hỏi về Đức Mẹ một cách hoàn hảo hơn; từ đó chúng ta mới nhận ra chúng ta có một người Mẹ rất xứng đáng, rất tuyệt mỹ.

21. Đây cũng là lý do khiến chúng ta phải yêu mến Đức Mẹ hơn mọi tạo vật khác.Chúng ta cũng hãnh diện vì có được một người Mẹ gương mẫu; được Thiên Chúa yêu thương ban cho nhiều ơn huệ, từ đó Mẹ có nhiều phúc lộc để ban lại cho chúng ta là những con cái Mẹ.

22. Đức Mẹ là một thụ tạo được cứu rỗi cách đặc biệt và tuyệt hảo: Đây cũng là niềm hy vọng tràn đầy, báo trước cho chúng ta cũng sẽ được cứu rỗi như vậy .

23. Chúng ta là tội nhân, còn Đức Mẹ thì không tì ố nào. Vì thế Đức Mẹ sẽ cảm thông và trợ giúp chúng ta nhiều hơn. Nói cách khác: Đặc ơn vô nhiễm của Mẹ làm cho đức cậy của chúng ta vững chắc hơn.

24. Nhờ gương mẫu và lời cầu bầu của Đức Mẹ là động lực thúc đẩy chúng ta sống giống Mẹ ở đích cuối cùng là sạch tội ,cho dù ở mức độ thấp kém hơn Đức Mẹ.  Và vì thế, chúng ta sẽ được Thiên Chúa ban thưởng hạnh phúc nước trời như Mẹ.

Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội ! Sống sạch tội khó lắm Mẹ ơi, xin Mẹ giúp chúng con luôn luôn, để chúng con có thể sống đời anh hùng như hoa huệ giữa bụi gai và xứng đáng được Thiên Chúa chúc phúc như Mẹ / Amen. **R

 

Thứ ba, 05/04/2016

Đề tài: ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan (Yn 3,7b-15)

7 Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. 8 Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy." 9 Ông Ni-cô-đê-mô hỏi Người: "Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?" 10 Đức Giê-su đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Ít-ra-en, mà lại không biết những chuyện ấy! 11 Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. 12 Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?" 13 Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. 14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

SUY NIỆM:

1/ Thiên Chúa là cây nho, chúng ta là cành nho. Điều kiện để cành nho được sống là phải liền cành với cây nho, để cây nho thông ban nhựa sống.

2/ Ngày xưa ông Moise treo con rắn đồng ở trong Sa Mạc (Ds 21,4-9), ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng với lòng tin vào Thiên Chúa thì được cứu sống. Con rắn đồng là dấu hiệu để chúng ta được cứu thoát.

3/ Con người muốn được cứu thoát, cũng phải nhìn lên Đấng được giương cao.Nghĩa là tin vào Ngài, lắng nghe và thực thi giáo huấn của Ngài, giương cao có nghĩa là Đức Giêsu vừa bị chết treo trên Thập Giá, sau đó đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh.

4/ Đối với Chúa Giêsu, chết không hề là một sự thất bại. Nhưng mục đích cái chết của Ngài là để đổi lại sự sống cho con người, cho những ai tin vào Ngài, nhờ đó họ trở thành con Thiên Chúa (Yn 1,12).

5/ Trong mọi hoàn cảnh khốn khó của cuộc đời, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy ngước nhìn lên Thánh giá của Chúa Giêsu. Vì Thánh Giá là biểu tượng của nguồn ơn cứu độ, là niềm hy vọng, là niềm tự hào của mọi Ki-tô hữu.

6/ Chúa Giêsu cho ông Nicodemo biết có hai điều kiện để được sống đời đời: Thứ nhất phải được ơn tái sinh, thứ hai phải tin vào Chúa Giêsu và vui lòng vác Thập Giá mình mà đi theo Ngài.

7/ Tái sinh là phải lãnh nhận phép rửa tội để trở nên một thụ tạo mới, là con của Chúa được Thần linh Thiên Chúa hướng dẫn.

8/ Sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần như luồng gió. Gió thổi từ đâu, thổi đi đâu, không ai biết được, và dừng lại ở đâu. Không ai biết vì không ai thấy  gió, người ta chỉ thấy được hiệu quả từ gió mà thôi => Gió thổi bay tà áo, gió thổi tắt ngọn nến, gió làm dịu sức nóng và cho chúng ta sự mát mẻ.

9/ Không ai thấy Chúa Thánh Thần vì Ngài vô hình. Ngài vẫn hoạt động nơi chúng ta nhưng chúng ta không trông thấy Ngài / 

10/ Để đổi mới cuộc đời, chúng ta cần đến quyền năng sáng tạo của Ngôi Ba Thiên Chúa, là Chúa Thánh Thần. Như Thiên Chúa đã sáng tạo và ban cho con người sự sống phần xác thế nào, thì Thánh Thần cũng có thể tạo dựng nên một con người mới và ban cho con người ấy sự sống mới như vậy.

11/  Chúa Giêsu còn dạy thêm: Như ông Moisen treo con rắn lên thế nào thì con người cũng phải bị treo lên như vậy, để ai tin vào Ngài thì sẽ không phải chết. Chúa Giêsu cũng có ý nói về chính Ngài: Khi Ngài chịu treo trên Thập Giá thì Ngài mới có thể kéo mọi sự lên cùng Ngài và ai tin vào Ngài thì sẽ được sống muôn đời.

12/ Thập Giá chính là nguồn ơn cứu độ để Chúa ban sự sống Thần Linh cho những ai tin vào Ngài và cũng trở thành điều kiện cho những ai muốn theo Ngài: “Ai muốn theo ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mình mà theo ta”.

13/ Chúa Giêsu vẫn luôn vác Thập Giá. Người Ki-tô hữu cũng phải vác Thập Giá của mình mà theo Chúa, chúng ta cũng cần biết rằng: Thập Giá chính là những gian nan, đau khổ, trái ý, những thử thách trong cuộc đời mình.

14/ Khi chúng ta lãnh phép rửa tội, là chúng ta đã được ơn tái sinh, là chúng ta có được sự sống Thần Linh, chúng ta đang được Chúa Thánh Thần soi dẫn. Nhưng sự sống Thần Linh này không miễn trừ cho chúng ta khỏi những đau khổ, trái ý , mà trái lại, cuộc đời chúng ta đầy những đau khổ, khó khăn, thử thách => Đó là Thập Giá / nó luôn đe dọa lòng tin yêu Chúa của chúng ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con luôn chấp nhận Thập Giá, bất kỳ ở cấp độ nào. Con chỉ xin Chúa luôn nâng đỡ con trên mọi nẻo đường đầy gian nan thử thách này , để chúng con luôn vững tin vào Chúa. Amen.

 

Thứ tư, 06/04/2016

Đề tài: QUYỀN ĐÓN NHẬN VÀ KHƯỚC TỪ

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan (Yn 3,16-21)

16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. 19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. 20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."

SUY NIỆM:

1/ Chúng ta được lôi kéo đến cùng Thiên Chúa nhưng không mất đi sự tự do. Chúng ta được cuốn hút đến với Chúa bằng một lực hút thánh thiêng, êm ái.

2/ Chúa Giêsu chính là ánh sáng mà Thiên Chúa dùng để chiếu soi thế gian. Chúa Yesu cũng là nguồn mạch sự sống dành cho những ai tin vào Ngài.

3/ Bài Tin Mừng hôm nay cũng là một bản án dành cho những ai chối từ ánh sáng và ưa chuộng bóng tối, có nghĩa là họ luôn thích làm điều xấu xa nên muốn khước từ Chúa Giêsu, cũng là khước từ chính Đấng ban sự sống.

4/ Những ai tin vào Chúa Giêsu là đón nhận ánh sáng, thì không bị kết án, nhưng được hưởng sự sống muôn đời. Đón nhận ánh sáng là sống theo đường lối Chúa dạy.

5/ Chúa muốn tôi không ham mê của cải vật chất, ham mê danh vọng, quyền thế.Nhưng phải sống trong sạch, bác ái và thờ phượng Chúa.

6/ Hôm nay Chúa Giêsu bảo ông Nicodemo, chẳng những phải tin vào Đức Ki-tô mà còn phải tin vào Thiên Chúa Cha. Vì yêu thương, Chúa Cha đã ban con một xuống thế để cứu chuộc nhân loại và ban cho họ sự sống vĩnh cửu. Người con ấy chính là Chúa Giêsu, Ngài cũng chính là ánh sáng ban sự sống.

7/ Người Do Thái đang mong chờ một Đấng Thiên Sai, một quan xét, một quan tòa đến để phân tách kẻ lành người dữ , Phân tách người Do Thái khỏi lương dân.

8/ Hôm Chúa Giêsu báo cho họ biết điều mà họ trông mong đó đã thành tựu vì Đức Ki-tô đã đến. Sự xét xử phân tách ở đây chính là sự hiện diện của Đức Ki-tô: ai tin Ngài là được cứu rỗi, ai từ chối Ngài là bị phạt.

9/ Chúa báo ông Nicodemo rằng: Có rất nhiều người, nhất là các đồng nghiệp Phariseu của ông đã cứng lòng, cố chấp, không chịu tin vào Ngài, còn làm khó dễ Ngài. Như vậy là họ đang ưa chuộng tối tăm hơn ánh sáng, họ sợ ánh sáng sẽ phơi bày việc xấu xa của họ và lên án họ; ngược lại những ai đến với ánh sáng, đến với Ngài sẽ được cứu rỗi.

10/ Chúa Giêsu dùng hình ảnh ánh sáng để chỉ về Ngài. Chúng ta biết ánh sáng rất quan trọng đối với con người, nếu không có ánh sáng thì không có sự sống.

11/ Từ thảo mộc, cây cỏ, đến con người. Nếu không có ánh sáng thì mọi vật đều phải chết, ánh sáng giúp con người nhìn thấy nhau, thấy được vật chất, thấy được màu sắc.

12/ Trong lãnh vực thiên nhiên. Chúa Giêsu cũng muốn nói đến sự cần thiết phải có Ngài, Ngài là ánh sáng của thế gian, không có Chúa thì không có ơn cứu rỗi, con người phải đến với Ngài mới có được ơn cứu rỗi.

13/ Chúng ra rất cần ánh sáng của Chúa. Khi ở trong bóng tối, chúng ta dám làm bất cứ điều tồi tệ nào, chúng ta dám coi trời bằng vung; ngược lại, nếu có ánh sáng của Chúa, chúng ra sẽ sống tốt lành, chúng ta sẽ như hạt giống nẩy mầm , trổ sinh niềm tin và hy vọng cho anh em chúng ta.

14/ Suy nghĩ kỹ lại: Hiện giờ chúng ta có ánh sáng của Chúa không? Chúng ta có sống đúng vai trò là ánh sáng của thế gian không? Không ai có thể cho cái mà mình không có.

15/ Chúng ta không có ánh sáng thì chúng ta không soi sáng cho ai được. Lòng có đầy thì mới tràn ra bên ngoài, xem quả thì biết cây. Hãy sống sao để mọi người nhìn vào và biết chúng ta là con cái sự sáng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ bóng tối tội lỗi để được sống trong ánh sáng của Chúa . Amen.

 

Thứ năm, 07/04/2016

Đề tài: HÃY TÍN THÁC MỌI SỰ VÀO CHÚA

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan (Yn 3,31-36)

31 Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người; 32 Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. 33 Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. 34 Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. 35 Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. 36 Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy."

SUY NIỆM:

1/ Hãy phó thác mọi sự cho Chúa. Hãy chọn Chúa chứ không chỉ chọn việc của Chúa.

2/ Phúc Âm hôm nay diễn tả lại sự việc Chúa chữa lành cho người mù từ thưở mới sinh. Ngài xức bùn vào mắt và bảo anh hãy đi rửa ở Hồ Silo-ác, anh tin tưởng làm theo và đã được sáng mắt.

3/ Đức Giêsu vừa chữa lành cặp mắt thể lý và Ngài còn vừa chữa lành cả cặp mắt đức tin của anh, bởi vì anh đã biết tín thác vào Ngài.

4/ Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy tín thác mọi sự vào người Con. Bởi vì Thiên Chúa đã trao phó mọi sự vào tay người Con của mình.

5/ Đức Giêsu có toàn quyền của Cha mình. Ngài sẽ ban thần khí dồi dào và ban sự sống vĩnh cửu cho những ai tín thác vào Ngài. Vậy chúng ta cần biết lắng nghe Lời Chúa mời gọi, luôn tín thác đời mình cho Chúa.

6/ Chọn Chúa, tin Chúa, yêu Chúa là phải đi tìm kiếm Chúa trước hết, mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau.

7/ Những Lời Chúa nói cùng Nico-demo trước hết được áp dụng vào chính Ngài.Ngài bởi trời mà đến, nên Ngài chỉ nói về những chuyện trên trời.

8/ Các Tông đồ cũng chỉ nói về những chuyện trên trời, đến nỗi người Do Thái phải ngỡ ngàng bực tức. Người Do Thái thấy các Tông đồ là những người thất học mà nay nói được những chuyện cao siêu , hơn hẳn họ.

9/ Trước đây các ông đâu có như vậy. Nhưng từ khi Chúa sống lại, các ông được ban Thánh Thần, nên mọi sự đã thay đổi hẳn, nay các ông chỉ sống như những người đang ở trên trời, không ham sống sợ chết, không mưu cầu danh lợi. Các ông sẵn sàng hy sinh tất cả, chỉ để được thuộc về nước trời mà thôi.

10/ Chúng ta hôm nay cũng phải như vậy. Cũng phải nói với nhau về những chuyện trên trời, tức là nói những chuyện tốt lành đạo đức, những điều đem lại yêu thương an bình cho nhau.

11/ Chúng ta cần sống như những người thuộc về thượng giới, tức là sống tốt đẹp, hòa thuận, công bình, bác ái, yêu thương với mọi người. Nếu xét theo lý lịch thiêng liêng, chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta thuộc về Đức Ki-tô và chúng ta cần sống đúng với danh hiệu đó.

12/ Câu chuyện người lính Nhật thất trận lẩn trốn ở khu rừng Philippin. Sau hơn 20 năm, bộ dạng anh đã trở thành người rừng, nhưng bộ quần áo trận của anh vẫn mới nguyên, người ta thắc mắc: Tại sao lúc đói khổ trong rừng, anh không mang bộ quần áo đó ra mặc mà lại giữ gìn nó kỹ lưỡng như vậy. Anh trả lời: Tôi là người lính Nhật, tôi phải giữ trang phục của người lính Nhật để khi về trình diện với Nhật Hoàng thì tôi có thứ để mặc mới xứng đáng là người lính của xứ Mặt trời mọc chứ.

13/ Người Ki-tô hữu chúng ta nên lấy đó làm gương. Chúng ta có chiếc áo trắng ngày rửa tội, chúng ta phải cố gắng gìn giữ để khi về trình diện với Chúa, chúng ta mới xứng đáng được Chúa khen thưởng. Đây chính là tinh thần người lính Nhật mà cũng chính là tinh thần của người Ki-tô hữu. Người lính Nhật luôn hướng lòng mình về nước Nhật, chúng ta cũng phải luôn hướng lòng mình về quê hương của chúng ta trên trời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con luôn hướng lòng về với Chúa, bởi chúng con luôn nhớ Chúa, yêu Chúa, yêu quê hương trên trời của chúng con ,xin giúp con trung thành với Chúa cho đến cùng , Amen.

 

Thứ sáu, 08/04/2016

Đề tài: ƠN CHÚA LUÔN DƯ THỪA

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan (Yn 6,1-15)

1 Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a.

2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. 5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" 6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7 Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút." 8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người:

9 "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! " 10 Đức Giê-su nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi." Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi." 13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.

SUY NIỆM:

1/ Khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn dư thừa, nên đám đông xem Người là Moise mới, là một Ngôn sứ đang chăm sóc dân Chúa bằng một loại Mana mới.

2/ Thức ăn mới hay Mana mới đều nằm trong lời Mạc Khải của Chúa Giêsu nên ta phải đón nhận bằng niềm tin“Chính tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi thì chẳng khát bao giờ”.

3/ Dân chúng chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt trần thế nên mới quyết định tôn Chúa lên làm vua. Đối với chúa Giêsu, việc làm vua trần thế không khác gì một cơn cám dỗ, Ngài quyết trung thành với Thánh ý Chúa Cha nên đã lên núi một mình để kết hiệp mật thiết với Cha mình.

4/ Theo gương Chúa Giêsu, ta hãy dành nhiều giây phút thinh lặng bên Chúa để chúng ta dễ dàng lãnh nhận Thánh ý Ngài.

5/ Trong 3 năm rao giảng Tin Mừng, có hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.Hôm nay là lần làm phép lạ hóa bánh đầu tiên, phép lạ này đã xảy ra trên một triền núi, là nơi Chúa Giêsu và các Môn đệ muốn lui về đó để nghỉ ngơi và tĩnh dưỡng sau những tháng ngày rao giảng mệt nhọc.

6/ Nơi đây là nơi hoang vắng ít người ở, nhưng vì dân chúng quá ái mộ Chúa, họ đoán biết Chúa sẽ đến đây nên đã kéo đến thật đông đảo.

7/ Thấy như vậy nên Chúa động lòng thương, và đó cũng là lý do khiến cho Chúa làm phép lạ. Chúa hỏi để thử lòng các Môn Đệ coi liệu có cho dân chúng ăn được không.

8/ Ông Philipphe thành thật trả lời: Thưa Thầy, dù có mua đến 200 đồng bánh thì cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút, / 200 đồng bánh thời đó tương đương với tiền lương công nhật của 200 người thợ / bằng ấy tiền cũng khá lớn nhưng không thấm tháp gì so với số đông người như thế này.

9/ Một Tông đồ khác là Anre báo cáo với Chúa ở đây họ chỉ tìm thấy một em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ. Với số bánh và cá ít ỏi này, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa ra nhiều để các Môn đệ đem ra chia cho mọi người cùng ăn.

10/ Đây là một phép lạ lớn lao nhất, có tất cả mọi người cùng chứng kiến và tất cả mọi người đã ăn no theo ý thích. Số người ăn là năm ngàn đàn ông, nếu kể đàn bà và trẻ con ,con số này có thể là 15 ngàn người . Ăn xong, các Môn đệ đi thu gom lại còn những 12 thúng đầy mẩu bánh và cá dư thừa.

11/ Mọi người phấn khởi và cảm phục Chúa hết lòng nên ai cũng muốn tôn Ngài lên làm vua. Nhưng Chúa Yesua không đồng tình như thế và Ngài đã lánh lên núi một mình để cầu nguyện.

12/ Phép lạ này Chúa có mục đích chuẩn bị lòng tin vào phép Thánh Thể sau này. Đây là phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi phần xác, Chúa Giêsu cho chúng ta biết có thứ bánh nuôi sống linh hồn, tức là bánh hằng sống. Chính Chúa đã quả quyết sự quan trọng của phép Thánh Thể: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.

13/ Thánh Thể ban sự sống cả hồn lẫn xác. Hồn được phục sinh ngay trong đời sống hiện tại vì nhận ngay được sự sống thần linh của Chúa và xác sẽ được sống lại vào ngày sau hết.

14/ Chúng ta hãy kết nối các việc làm hằng ngày vào việc rước lễ để xứng đáng được thưởng muôn ngàn ơn phúc do việc rước lễ mang lại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin nuôi sống thân xác linh hồn con bằng thứ lương thực thiêng liêng là Mình và Máu Chúa, để con có được sự sống đời đời. Amen.

 

 Thứ bảy, 09/04/2016

Đề tài: THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan (Yn 6,16-21)

16 Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, 17 rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến với các ông. 18 Biển động, vì gió thổi mạnh. 19 Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. 20 Nhưng Người bảo các ông: "Thầy đây mà, đừng sợ! " 21 Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.

SUY NIỆM:

1/ Chúng ta chiếm được Thiên Chúa, trở nên giống Chúa, không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn trở nên như Người. Nhưng theo nghĩa chúng ta trở nên hình ảnh phản chiếu của Người hết mức có thể.

2/ Khi nhìn thấy một bóng người đi trên mặt biển hồ đang tới gần thuyền, các Môn đệ hoảng sợ. Phần vì các ông đang hoảng sợ vì sóng to gió lớn, biển động mạnh.

3/ Theo quan niệm của Người Do Thái thì biển là thế lực của ma quỷ, thế lực của sự dữ đang luôn muốn nuốt chửng con người và mọi thứ vào nó. Các ông cũng sợ rằng cái bóng người đi trên mặt biển cũng thuộc về thế lực của sự dữ, đang đến để diệt trừ họ.

4/ Trong tình cảnh đó, Đức Giêsu đã đến gần và trấn an các Môn đệ: “Thầy đây, đừng sợ”. Với giọng nói quen thuộc, các Tông đồ xác định người đang đi đến thuyền chính là Đức Giêsu, vì thế họ vội vàng rước Người lên thuyền.

5/ Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi phải nhận ra sự hiện diện của Chúa qua các dấu chỉ của thời đại để chúng ta hiểu biết chương trình và ý định của Thiên Chúa.

6/ Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật nên cũng có toàn quyền trên thiên nhiên. Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng cho lời quả quyết này .

7/ Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, chắc các Môn đệ cũng muốn như thế. Nhưng Chúa thì không muốn như thế nên đã bảo các Môn đệ chèo thuyền đi trước qua bên kia bờ hồ.

8/ Chúa ở lại một mình nên Ngài lên núi cầu nguyện. Các Tông đồ vừa ra đi cách khoảng 5 cây số thì gặp sóng to gió lớn. Thánh Mattheu cho biết: Gió ngược thổi dữ dội, lúc ấy vào khoảng canh tư (3 giờ sáng).

9/ Lúc ấy các Môn đệ mệt mỏi lắm vì đang cố sức chèo chống. Giữa lúc ấy Chúa Giêsu hiện đến / vừa mệt mỏi, vừa là đêm tối nên các ông tưởng là ma quái và rất hoảng sợ.

10/ Nhưng ngay lúc ấy các ông nghe một giọng nói quen thuộc: “Thầy đây, đừng sợ”, thì các ông nhận ra Chúa. Cũng chính lúc ấy, theo lời Mattheu kể lại, thì sóng gió yên lặng ngay, khi các Môn đệ định mời Chúa lên thuyền thì một phép lạ thứ hai xảy ra : đó là thuyền đã vào đến bờ.

11/ Đối với Chúa thì không có gì là khó khăn, đối với chúng ta thì cũng chẳng có gì khó hiểu. Bởi vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài là Đấng tạo dựng vũ trụ, chính Chúa cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Chúa đi được trên sóng nước thì không có gì là phản khoa học hay bất hợp lý, nhưng điều này minh chứng rõ uy quyền của Thiên Chúa.

12/ Các Môn đệ hôm ấy đã ghi nhận rõ sự kiện là Chúa có quyền trên biển cả, đi được trên sóng nước và truyền cho chúng phải im lặng.

13/ Điều này giúp cho các Môn đệ gia tăng niềm tin và biết rõ Thầy mình là ai => Quả thật Ngài là con Thiên Chúa, các Môn đệ chưa cầu xin gì thì Chúa đã khiến cho sóng gió phải yên lặng.

14/ Chỉ cần có Chúa hiện diện thì sóng gió đã phải vâng lệnh. Nếu ta đặt Chúa vào trong đời sống của mình thì chúng ta sẽ có được bình an trong mọi thử thách / chỉ trong khoảnh khắc, mọi sự sẽ thay đổi vì có Chúa hiện diện.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy đến để giúp con vượt qua mọi giông tố, thử thách của đời con. Amen.

 


Trở lại      In      Số lần xem: 1613
Tin tức liên quan
Video
BG CN 25 TN B-TGM GIUSE NGUYEN NANG
Bài Giảng CN LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG A
Liên kết website
Thống kê
 Trực tuyến :  11
 Hôm nay:  667
 Hôm qua:  2034
 Tuần trước:  39584
 Tháng trước:  100998
 Tất cả:  11478538
LIKE FACEBOOK
Thông tin liên hệ
- Mọiýkiếnxingửivề:GiuseLucaTrươngĐìnhNghi
- Giáodânbấtxứng /Quảnlýwebsite.
- Email: ditimhanhphuc1974@gmail.com
- Fb:https://www.facebook.com/ditimchanly.org 
-Videos:www.youtube.com/tìmtênDinhNghiTruong
 clickvàologokinhthánh .

Chia sẻ cho bạn bè :
top